Lưu trữ cho từ khóa: phụ nữ có thai

Phụ nữ có thai có nên cần nhiều vitamin D?

Phụ nữ mang thai cần lượng vitamin nhiều hơn người bình thường để giúp xây dựng bộ xương trẻ sơ sinh cũng như duy trì sức khỏe cho chính cơ thể mẹ.

Tôi nghe nói phụ nữ có thai cần nhiều vitamin D, điều này có đúng không? – Nguyễn Thu Hoài (Hà Nội).

phu-nu-co-thai-co-nen-can-nhieu-vitamin-d

Ảnh minh họa.

TS Nguyễn Thị Lâm

, Viện Dinh dưỡng Quốc gia:

Cơ thể chúng ta cần vitamin D để xây dựng xương và ngăn ngừa một số bệnh. Phụ nữ mang thai cần lượng vitamin nhiều hơn người bình thường để giúp xây dựng bộ xương trẻ sơ sinh cũng như duy trì sức khỏe cho chính cơ thể mẹ.

Vì thế, phụ nữ mang thai cần bổ sung của vitamin D thông qua tiếp xúc với ánh sáng mặt trời hoặc trong chế độ ăn uống. Nếu mẹ thiếu vitamin D sẽ làm tăng nguy cơ phát triển bệnh cao huyết áp và tiểu đường thai kỳ, con sinh ra cũng có nguy cơ thiếu cân.

Teho Kienthuc.net.vn

Phá thai an toàn

Bài phỏng vấn bác sỹ Nguyễn Thị Yến – Chuyên gia giám sát chất lượng lâm sàng các phòng khám Marie Stopes International tại Việt Nam.

Ảnh được cung cấp bởi Marie Stopes International

1- Biện pháp phá thai được sử dụng trong những trường hợp nào?

Khi chị em phụ nữ có thai trong tử cung mà chưa muốn sinh con, hoặc thai kỳ bất thường, hoặc thai kỳ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người mẹ, họ có quyền lựa chọn các phương pháp chấm dứt thai an toàn và hợp pháp. Hiện nay, đối với những thai giai đoạn sớm (dưới 12 tuần tuổi), có hai phương pháp chấm dứt thai nghén: bằng bơm hút chân không hoặc bằng thuốc.

– Chấm dứt thai bằng bơm hút chân không:

Áp dụng cho thai dưới 12 tuần tuổi, đây là phương pháp dùng bơm hút chân không với một ống hút nhỏ bằng nhựa đã tiệt khuẩn đưa vào lòng dạ con để hút thai ra. Biện pháp này có ưu điểm là kỹ thuật đơn giản, an toàn, thời gian thực hiện nhanh (chỉ 10 – 15 phút), tỉ lệ thành công cao đến 99%. Một số rủi ro có thể gặp (dù hiếm) trong hoặc sau khi hút thai là: nhiễm trùng, sót nhau, sót thai, dính lòng tử cung, nặng nề hơn là choáng, băng huyết, thủng dạ con… Vì thế, kỹ thuật này phải được thực hiện bởi cán bộ y tế đã qua đào tạo và tại các cơ sở y tế được Bộ y tế và luật khám chữa bệnh cho phép.

– Chấm dứt thai bằng thuốc:

Phương pháp uống thuốc để loại bỏ thai áp dụng cho những chị em có thai trong tử cung dưới 63 ngày tính từ ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối cùng, không mắc các bệnh lý chống chỉ định hay dị ứng với các thành phần của thuốc, thực hiện tại các cơ sở được Bộ y tế và luật khám chữa bệnh cho phép.

Tùy theo tuổi thai, tùy theo phân cấp phạm vi hành nghề, thuốc được sử dụng theo liều lượng khác nhau. Hai loại thuốc được cho phép sử dụng phổ biến là Mifepristone (có tác dụng ngăn chặn sự phát triển của thai) và Misoprostol (gây co cơ tử cung, đẩy thai ra ngoài). Hai thuốc này cần được sử dụng cách nhau 36 – 48 giờ (với thai dưới 49 ngày tuổi). Liều thứ nhất uống tại cơ sở y tế, liều thứ hai có thể uống tại nhà, chủ động tự theo dõi sau khi được cán bộ y tế tư vấn và cung cấp đầy đủ thông tin liên quan, hiểu rõ diễn tiến của phá thai bằng thuốc và các tai biến có thể có cũng như các cách xử trí thích hợp.

Biện pháp phá thai bằng thuốc có tỉ lệ thành công cao, từ 95 – 99%. Các trường hợp thất bại bắt buộc phải hút thai sau đó.

2- Hiện nay có nhiều bạn trẻ đã lạm dụng phá thai nhiều lần, như vậy có để lại hậu quả gì không, thưa bác sỹ?

Phá thai nhiều lần có thể đem lại những tác dụng không mong muốn :

– Có thể gặp hội chứng stress sau phá thai với những biểu hiện như: rối loạn giấc ngủ, rối loạn tâm thần kinh, tự ti, xa lánh mọi người…

– Thuốc dùng phá thai nội khoa có một số tác động ảnh hưởng toàn thân như nhức đầu, choáng váng, đau bụng, rối loạn tiêu hóa, sốt hoặc ớn lạnh, rong huyết nhẹ, nặng hơn như băng huyết, sót nhau, sót thai, nhiễm trùng cơ quan sinh sản hoặc thai tiếp tục phát triển. Có thể gây vô sinh thứ phát, hoặc thậm chí tử vong (dù rất hiếm) nếu không được chẩn đoán và xử lý kịp thời.

3- Bác sỹ có lời khuyên gì cho những người lỡ mang thai ngoài ý muốn?

Để tránh mang thai ngoài ý muốn, chị em phụ nữ – nhất là các bạn trẻ – nên lựa chọn cho mình một biện pháp tránh thai phù hợp như dùng bao cao su, thuốc uống tránh thai , thuốc tiêm, que cấy, đặt vòng, triệt sản (đình sản). Nếu lỡ mang thai ngoài ý muốn và quyết định chấm dứt thai kỳ, các bạn nên đến các cơ sở y tế hợp pháp, đáng tin cậy, có đủ phương tiện theo dõi, đội ngũ cung cấp dịch vụ được đào tạo bài bản… để được tư vấn và theo dõi, tránh những tai biến không đáng có.

Việc quan trọng sau đó là các bạn cần tìm hiểu và lựa chọn cho mình một biện pháp tránh thai phù hợp, tránh việc phá thai lặp lại làm ảnh hưởng đến sức khỏe và cuộc sống của bạn.

Marie Stopes International tại Việt Nam hoạt động dưới sự hỗ trợ tài chính và kỹ thuật của Tổ chức phi chính phủ Marie Stopes International Anh Quốc, với hệ thống 10 phòng khám Sản phụ khoa – Kế hoạch hóa gia đình tại Hà Nội, TP. HCM, Đà Nẵng, Nghệ An, Hà Tĩnh, Hạ Long, Nha Trang, Bình Dương, Cần Thơ. Các phòng khám này chuyên tư vấn và cung cấp các biện pháp tránh thai hiện đại, khám và điều trị các bệnh phụ khoa, chăm sóc thai sản, xét nghiệm sớm ung thư cổ tử cung, chấm dứt thai nghén an toàn, chất lượng do đội ngũ y bác sĩ nhiều kinh nghiệm đảm trách, trang thiết bị hiện đại và phong cách chăm sóc khách hàng thân thiện, tôn trọng và kín đáo.

Địa chỉ và thông tin liên hệ của hệ thống phòng khám Marie Stopes International tại Việt Nam: Truy cập website http://www.mariestopes.org.vn hoặc gọi điện cho tổng đài hỗ trợ khách hàng 1900 55 88 82 để biết thêm thông tin chi tiết.

Thời tiết giao mùa, trẻ dễ bị bệnh

Miền Nam không có mùa đông lạnh giá, tiết trời ấm áp quanh năm, nhưng khi độ ẩm tăng cao cũng vẫn sẽ là điều kiện cho vi sinh vật phát triển. Đặc biệt, những trẻ hiếu động dễ sinh mồ hôi, không được lau kịp thời khiến các bệnh về đường hô hấp, ho cảm gia tăng.

PGS-TS Nguyễn Văn Bàng (phó trưởng khoa Nhi, BV Bạch Mai) chia sẻ, thời tiết thay đổi, giao mùa khiến trẻ thường mắc các bệnh như: ngạt mũi, chảy nước mũi, ho, đau đầu, sốt, toàn thân khó chịu, viêm mũi, viêm V.A, viêm họng cấp… và ho thường là dấu hiệu cho các bệnh này. Nếu bệnh nhẹ, bác sĩ khuyến cáo không nên dùng kháng sinh cho trẻ. Phương pháp chữa trị chủ yếu là làm long đờm, ăn uống đầy đủ. Nếu được chăm sóc tốt, nhiều trẻ sẽ tự khỏi sau đó vài ba ngày. Nếu trẻ đang bú mẹ, giai đoạn này, bạn nên tăng cường cho trẻ bú mẹ. Nếu trẻ đã bước vào tuổi ăn dặm, bạn nên cho trẻ ăn những loại thức ăn dễ tiêu, ít chất béo, ít chất ngọt và chia thành nhiều bữa nhỏ trong ngày. Khi trẻ bị ngạt mũi, trước bữa ăn, bạn nên nhỏ mũi cho trẻ (dùng nước muối sinh lý hoặc thuốc nhỏ mũi dành cho trẻ) để làm thông mũi trẻ. Trong những ngày thời tiết như thế này, cha mẹ nên vệ sinh cơ thể, đặc biệt là khu vực tai, mũi, họng cho trẻ hàng ngày.

(Ảnh do nhãn hàng Ích Nhi cung cấp)

PGS Bàng nhấn mạnh, các mẹ cần tránh các tác nhân gây dị ứng và cách ly trẻ với môi trường khói thuốc, hóa chất hoặc không nên để trẻ tiếp xúc với chó, mèo. Phòng ngủ của trẻ cần được đặc biệt thông thoáng, trong lành. Không nên trải thảm trong phòng trẻ. Nên thường xuyên giặt chăn, gối dành cho trẻ, sau đó phơi nắng thật khô. Hạn chế cho trẻ tiếp xúc với nhiều người, nhất là với những người có biểu hiện bị cúm. Cho trẻ uống nước ấm, tránh ăn những thức ăn lấy trực tiếp ra từ tủ lạnh, kem, đá. Tăng cường dinh dưỡng và vitamin C, cho trẻ uống nước đầy đủ.

PGS Dương Trọng Hiếu (nguyên BS bệnh viện YHCT TW) chia sẻ, khi trẻ bị cảm, ho, các bà mẹ cần chú ý chữa trị kịp thời và triệt để. Thực tế hiện nay có nhiều loại thuốc Tân dược được bào chế dưới dạng siro để trẻ nhỏ dễ uống và liều lượng đã được điều chỉnh nhưng không phải vì thế mà các tác dụng phụ của thuốc không đáng ngại. Chức năng đào thải các chất độc của gan, thận còn kém, trẻ lại rất hay bị cảm, ho nên sử dụng thuốc rất thường xuyên. Nếu không cẩn trọng các mẹ sẽ bắt gan, thận của bé làm việc vất vả trong khi chức năng của các cơ quan này còn chưa được hoàn chỉnh. Các mẹ nên tìm các loại thuốc thảo dược an toàn cho bé. Nhưng ngay các thuốc Đông dược cũng có các vị thuốc không khuyến cáo dùng cho trẻ nhỏ như tinh dầu bạc hà, tỳ bà diệp, bạc hà diệp… Thế nên các mẹ chỉ nên lựa chọn các sản phẩm thảo dược được đặc chế dành riêng cho các bé. Cũng cần tìm các thuốc có mùi vị thơm, ngon, dễ uống. Siro Ích Nhi là một sản phẩm đáp ứng được tất cả các điều kiện này. Là sản phẩm được nghiên cứu và đặc chế dành riêng cho trẻ, với thành phần từ kinh giới, mật ong và các thảo dược nhanh giải cảm, giảm ho cho bé mà lại rất an toàn, mùi vị thì thơm ngon, thích hợp với khẩu vị của trẻ. Khi dùng kết hợp với các kháng sinh ở những bé bị cảm, ho nặng, Ích Nhi còn giúp các bé nâng cao sức đề kháng, giảm được các tác dụng phụ của kháng sinh và giúp bé nhanh khỏi bệnh. Đây là sản phẩm được nhiều bác sĩ khoa nhi khuyên dùng.

(Ảnh do nhãn hàng Ích Nhi cung cấp)

Thành phần: xuyên khung 8g, cát cánh 8g. kinh giới 8g, tử uyển 8g, bách bộ 8g, xuyên bối mẫu 8g, hương phụ 8g, cam thảo 8g, trần bì 8g, mật ong 15g, phụ liệu vừa đủ 100ml. Tác dụng: giải biểu, trừ ho, trừ đờm. Chỉ định: thuốc được sử dụng trong các trường hợp điều trị các trường hợp cảm lạnh, cảm cúm, hắt hơi sổ mũi, ngạt mũi, trị các chứng ho do lạnh, ho đờm nhiều. Liều lượng và cách dùng: trẻ sơ sinh – dưới 3 tuổi uống 3ml/ lần x 2 – 3 lần/ ngày; trẻ em 3 – 7 tuổi uống 5 ml/ lần x 2 – 3 lần/ ngày; trẻ em 7 – 12 tuổi uống 7,5 ml/ lần x 2 – 3 lần/ ngày; từ 12 tuổi trở lên uống 10 ml/ lần x 2 – 3 lần/ ngày. Có thể pha loãng với nước ấm cho dễ uống. Chống chỉ định: bệnh nhân mẫn cảm với bất kỳ thành phần nào của thuốc, phụ nữ có thai. Sử dụng thuốc cho phụ nữ có thai và cho con bú: + Thời kỳ mang thai: Không sử dụng thuốc cho phụ nữ có thai. + Thời kỳ cho con bú: Cần thận trọng khi sử dụng thuốc cho phụ nữ đang trong thời kỳ cho con bú. Trước khi sử dụng thuốc cần tham khảo ý kiến của bác sỹ. Tác dụng không mong muốn của thuốc: chưa có báo cáo. Chú ý: thông báo cho bác sỹ những tác dụng không mong muốn gặp phải khi sử dụng thuốc. Hạn dùng: 24 tháng kể từ ngày sản xuất. Bảo quản: Trong bao gói kín, nơi khô mát, tránh ánh sáng. Tiêu chuẩn sản phẩm: tiêu chuẩn cơ sở. Quy cách đóng gói: hộp 1 lọ 100ml.

Điện thoại tư vấn sản phẩm: 043.9953901

Website: www.chamsoctre.vn

Hồ sơ đăng ký quảng cáo số: 1322/10/QLD-TT

Tập thể dục dưới nước tốt cho phụ nữ có thai

Việc tập thể dục trong bể bơi mang lại nhiều lợi ích cho phụ nữ có thai.

Nó vừa giúp thai phụ giữ được hình thể đẹp, làm giảm các cơn đau, vừa giúp việc sinh nở diễn ra thuận lợi hơn mà không gây hại đối với thai nhi.

Các bài tập dưới nước được thay đổi theo từng giai đoạn của thai kỳ. Sau đây là hướng dẫn cụ thể:

– Ba tháng đầu: Những bài tập ở thời gian này nhằm tăng cường cơ bắp, tăng trương lực ở những chỗ có thể béo ra khi mang thai.

+ Giữ cho hai vú chắc: Ngâm mình trong nước tới cổ, 2 bàn chân đặt phẳng dưới nền, gấp 2 cánh tay, để 2 bàn tay thẳng ngang vai, gan bàn tay xoay ra ngoài. Duỗi 2 cánh tay thẳng ra phía trước rất nhanh rồi kéo trở lại, đồng thời vươn 2 vai về phía sau. Làm 20 lần.

+ Giữ cho thân hình tròn trĩnh: Tì 2 khuỷu tay lên thành bể hoặc trên một tấm ván đặt trước mặt, dang thẳng hai chân rồi khép lại nhanh, bắt chéo các mắt cá chân. Làm 50 lần.

– Ba tháng giữa: Phòng ngừa, làm dịu các chứng đau nhẹ do tư thế sai và các rối loạn về tuần hoàn.

+ Giữ trương lực cơ lưng: 2 chân dạng và gấp, ngâm người trong nước tới gần tai, giơ hai cánh tay thẳng trước mặt rồi hạ xuống, đưa ra sau càng xa càng tốt. Làm 20 lần.

+ Giữ cho 2 chân nhẹ nhàng: Nằm dài trên nước, co và duỗi 2 bàn chân 20 lần, làm động tác đạp xe đạp xuôi và ngược, mỗi lúc một nhanh.

– Ba tháng cuối: Làm cho cơ thể thư giãn để chuẩn bị sinh con.

+ Làm khung chậu mềm mại: Nằm ngửa, lấy 2 cánh tay đỡ phía dưới, co mông và đu đưa khung chậu lên cao 10 lần. Sau đó đặt một cẳng chân gấp lên đùi bên kia để xoay háng nhẹ nhàng. Làm 10 lần mỗi bên.

+ Giữ hơi thở tốt: Ngồi hoặc đứng trong nước (miệng ngập trong nước), bình tĩnh hít vào rồi thở ra nhẹ nhàng. Làm 10 lần.

(Theo Vnexpress)

Tác dụng bất lợi của thuốc kháng histamin

Loét dạ dày tá tràng có nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh khá phức tạp, có sự tham gia của nhiều yếu tố, trong đó ảnh hưởng của dịch vị dạ dày mà trực tiếp là acid HCl ở dạ dày đóng vai trò quan trọng. Mặc dù trong thời gian gần đây, sự ra đời của nhóm thuốc ức chế bơm proton đã mang lại tiến bộ rõ rệt trong điều trị, nhưng không phải ở đâu và không phải lúc nào cũng có thể sử dụng. Do đó, chúng ta vẫn phải nhắc đến vai trò và các tác dụng không mong muốn khi sử dụng một nhóm thuốc khác trong điều trị giảm tiết acid dạ dày – nhóm thuốc kháng histamin H2 mà thành viên nổi bật là cimetidin.

Các thuốc thường được sử dụng

Sau khi thử nghiệm hơn 700 hợp chất, cimetidin (biệt dược tagamet) là thế hệ đầu tiên của thuốc kháng H2 ra đời năm 1976; được phép bán ở thị trường vào tháng 8/1977 và nhanh chóng được sử dụng rộng rãi, có hiệu quả trong điều trị loét dạ dày tá tràng, có tác dụng cắt cơn đau nhanh, liền sẹo khoảng 80% sau 6 tuần điều trị. Cimetidin nhanh chóng trở thành thuốc chống loét được ưa chuộng và được sử dụng rộng rãi. Kể từ đó đến nay, cimetidin trở thành một trong những thuốc được kê đơn phổ biến nhất chỉ đứng sau ranitidin.


Tháng 6/1983, ranitidin – một ức chế thụ thể H2 thứ hai được chấp nhận, cấu trúc hơi khác với cimetidin, gây giảm tiết dịch vị gấp 5 – 10 lần cimetidin khi sử dụng cùng liều. Tuy nhiên, thuốc cũng không làm thay đổi diễn tiến tự nhiên của bệnh. Sau đợt điều trị ngắn hạn mà dừng thuốc, tỷ lệ tái phát là 50% trong vòng 6 tháng, 85% tái phát sau 1 năm. Thuốc có ít tác dụng phụ hơn cimetidin, chủ yếu là nhức đầu, chóng mặt, ngứa… ngừng thuốc thì hết.

Tháng 10/1986 và 8/1988, famotidin và nizatidin lần lượt được chấp nhận, có tác dụng mạnh hơn và ít tác dụng phụ hơn cimetidin rất nhiều.

Hiệu quả làm liền sẹo tương tự nhau của thuốc nhóm kháng H2 khi dùng trong thời gian điều trị 4 – 6 tuần. Thuốc có thể uống buổi tối hoặc chia hai lần trong ngày.

Cimetidin, famotidin, nizatidin và ranitidin là tất cả các thuốc không cần kê đơn sẵn có ở Mỹ.

Chỉ định điều trị

Do công thức gần giống với histamin, các thuốc kháng histamin H2 tranh chấp với histamin tại receptor H2 và không có tác dụng trên receptor H1. Mặc dù receptor H2 có ở nhiều mô như thành mạch, khí quản, tim, nhưng thuốc kháng histamin H2 tác dụng chủ yếu tại các receptor H2 ở dạ dày. Thuốc kháng histamin H2 ngăn cản bài tiết dịch vị do bất kỳ nguyên nhân nào làm tăng tiết histamin tại dạ dày (cường phó giao cảm, thức ăn, gastrin, bài tiết cơ sở). Do đó, nó không chỉ ức chế sau khi kích thích bằng histamin mà còn cả sau kích thích bằng gastrin hoặc acetylcholin. Liều lượng nhằm làm giảm tiết acid tương đương hiệu quả của cắt dây thần kinh phế vị (dây X).

Tác dụng của thuốc kháng histamin H2 phụ thuộc vào liều lượng, thuốc làm giảm tiết cả số lượng và nồng độ HCl trong dịch vị.

Vì vậy, thuốc được chỉ định trong các trường hợp sau:

– Loét dạ dày – tá tràng lành tính, kể cả loét do dùng thuốc chống viêm không steroid.

– Bệnh trào ngược dạ dày – thực quản.

– Hội chứng tăng tiết acid dịch vị (hội chứng Zollinger – Ellison).

– Làm giảm tiết acid dịch vị trong một số trường hợp loét đường tiêu hóa khác có liên quan đến tăng tiết dịch vị như loét miệng nối dạ dày – ruột.

– Làm giảm các triệu chứng rối loạn tiêu hóa (nóng rát, khó tiêu, ợ chua) do thừa acid dịch vị.

– Làm giảm nguy cơ hít phải acid dịch vị khi gây mê hoặc khi sinh đẻ (hội chứng Mendelson).

Chống chỉ định và thận trọng

Chống chỉ định: Quá mẫn cảm với thuốc.

Thận trọng: Trước khi dùng thuốc kháng histamin H2 phải loại trừ khả năng ung thư dạ dày, đặc biệt ở người từ trung niên trở lên vì thuốc có thể che lấp các triệu chứng, làm chậm chẩn đoán ung thư.

Có nhạy cảm chéo giữa các thuốc trong nhóm kháng histamin H2.

Dùng thận trọng, giảm liều và/hoặc kéo dài khoảng cách giữa các lần dùng thuốc ở người suy thận.

Thận trọng ở người suy gan, phụ nữ có thai và cho con bú (ngừng thuốc hoặc ngừng cho con bú).

Tác dụng không mong muốn

Các chất đối kháng H2 có tính chất tương đối giống nhau. Nó đã được chấp nhận rộng rãi, tuy nhiên, cimetidin dường như gây ra tương tác với các thuốc chuyển hóa ở gan hơn các thuốc khác.

Trong quá trình dùng thuốc, người bệnh có thể gặp những triệu chứng bất thường do thuốc gây nên như: tiêu chảy, đau đầu, chóng mặt, ngủ gà, lú lẫn, trầm cảm, kích động… hay chứng to vú ở đàn ông, bất lực ở đàn ông, tăng men gan. Viêm gan mạn tính, vàng da, rối loạn chức năng gan, viêm tụy có thể xảy ra. Các phản ứng này cũng sẽ khỏi khi ngừng thuốc. Đây là những tác dụng phụ của thuốc, những triệu chứng này có thể gặp ngay cả ở liều điều trị.

Ngoài ra, các thuốc thuộc nhóm này còn gây tương tác với rất nhiều thuốc khác, vì vậy, người bệnh không nên tự ý dùng thuốc mà phải tuân theo sự chỉ định của bác sĩ điều trị.

ThS. Nguyễn Bạch Đằng

Meo.vn (Theo Suckhoedoisong)

Vấn đề dị ứng thực phẩm ở bà bầu

Yếu tố dinh dưỡng đối với phụ nữ mang thai là vô cùng quan trọng. Bà bầu nên ăn những loại thức ăn tươi ngon, dễ tiêu hóa, chứa nhiều dưỡng chất và cần tránh các loại thức ăn dễ gây dị ứng như: lúa mì, yến mạch, tôm, đậu phộng… để đảm bảo an toàn cho cả hai mẹ con.

Bà bầu nên đề phòng các loại thực phẩm dễ gây dị ứng

Nhóm thức ăn dễ gây dị ứng

– Một số loại ngũ cốc như lúa mì, lúa mạch, yến mạch.

– Tôm, cua, trứng, cá và các thực phẩm từ trứng.

– Đậu phộng, đậu nành, hạt dẻ.

– Sữa và các sản phẩm từ sữa.

Cơ chế gây dị ứng

Chất gây dị ứng có trong thức ăn khi vào cơ thể sẽ gây ra phản ứng quá mẫn cảm. Đầu tiên, cơ thể sản sinh ra một loại kháng thể đặc dị, được gọi là protein miễn dịch IgE. Nếu lại tiếp tục ăn thức ăn ấy, chất gây mẫn cảm sẽ thúc đẩy IgE kết hợp với tế bào phì đại của hệ thống miễn dịch để tạo ra histamine. Histamine sinh ra trong các tổ chức, cơ quan khác nhau sẽ gây nên những bệnh lý khác nhau. Ví dụ, histamine phóng ra ở mũi, vòm miệng và họng sẽ làm cho việc nuốt, thở khó khăn; phóng ra ở ruột thì gây đau rát như bị bỏng và đi tả; nếu phóng ra trên da sẽ gây mẩn ngứa, nổi mụn…

Cũng có một số thức ăn chứa chất xúc tiến có khả năng sinh histamine như: cá, nhiều loại pho mát, thực phẩm lên men, rượu vang đỏ, chocolate… Đặc biệt, cá (nhất là cá đông lạnh) thường sản sinh nhiều histamine ở mặt ngoài. Thực phẩm dễ gây dị ứng nhất là các chế phẩm từ sữa, trứng, trai, sò, ốc, đậu nành, đậu vàng, lạc, hạnh đào…

Tác hại của dị ứng đối với phụ nữ có thai

Người có thai mà ăn những loại thức ăn dễ gây dị ứng không những có thể gây sảy thai, đẻ non, gây dị dạng thai nhi mà còn tăng nguy cơ bị bệnh cho trẻ sau khi chào đời.
Căn cứ vào nghiên cứu phát hiện của các học giả Mỹ thì có khoảng 50% loại thức ăn có tác dụng gây dị ứng đối với cơ thể con người và được phân ra làm hai loại đó là: dị ứng ngấm ngầm và dị ứng hiện rõ ra ngoài.

Đối với với phụ nữ có thai nếu bị dị ứng sẽ lây nhiễm sang con. Bố mẹ có tiền sử bị dị ứng một số thực phẩm thì sau này có thể con cái cũng bị như thế. Thêm vào đó, những thức ăn dễ bị dị ứng đó được tiêu hoá, hấp thu có thể từ đế cuống rốn vào trong tuần hoàn huyết dịch của thai nhi. Đó là nguyên nhân làm trở ngại đến sinh trưởng, phát dục của thai nhi, hoặc trực tiếp làm tổn hại đến một số cơ quan như: phổi, phế quản. Theo đó, thai có thể bị dị dạng hoặc bệnh tật ngay còn trong bụng mẹ.

Cách phòng tránh

Dị ứng thức ăn là vấn đề thai phụ hoàn toàn có thể tự mình phòng tránh để giảm thiểu đến mức tối đa. Sau đây là một số mách nhỏ cho bạn:

– Nếu trước khi mang thai, bạn đã dị ứng với một loại hay một số thực phẩm nào đó thì khi mang thai không được ăn loại thực phẩm này.

– Tránh ăn những loại thức ăn mà trước đây chưa ăn bao giờ, hoặc các thức ăn đã ôi thiêu, để qua ngày, biến chất.

– Sau khi dùng một số loại thức ăn nào đó, nếu thấy có những hiện tượng như: ngứa toàn thân, nổi mề đay hoặc đau bụng, tiêu chảy… cần kịp thời tìm hiểu nguyên nhân thức ăn.

– Không ăn quá nhiều các loại thức ăn dễ gây dị ứng như: cá biển, tôm, cua, nhộng, các loại thực phẩm thuộc nhóm nhuyễn thể (có vỏ cứng như ốc, sò, hến…) và những loại thứa ăn có tính chất kích thích thuộc đắng, cay như rượu, hạt tiêu…

– Khi dùng những thực phẩm thuộc loại protein dị ứng như: gan, thận, trứng, sữa… cần phải được sào nấu chín thật kĩ mới được ăn. Tuyệt đối không ăn các loại thực phẩm như: rau sống, gỏi cá…

Có hơn 70 loại thực phẩm được miêu tả là nguyên nhân gây dị ứng. Quá trình sản xuất, chế biến, phối trộn thực phẩm có thể làm tăng, hoặc giảm tính dị ứng của thực phẩm. Hiện nay, có thể thông qua một loạt thử nghiệm để xác định cơ thể có mẫn cảm hay không với một loại thức ăn nào đó. Một phương pháp phổ biến là thí nghiệm hấp phụ phóng xạ PRIST: đắp chất nghi ngờ gây dị ứng lên da bắp tay, sau đó quan sát phản ứng ở da để xác định. Do vậy, các thai phụ cũng cần hết sức chú ý trong vấn đề ăn uống nhất là đối với loại thực phẩm dễ gây dị ứng.

Meo.vn (Theo Meyeucon)

Những thực phẩm cần tránh lúc mang bầu

Trong thời gian mang bầu, hầu hết những thức ăn và các loại đồ uống… bạn dùng đều có ảnh hưởng đến thai nhi.

Vì vậy bạn hãy lưu ý những thực phẩm cần tránh dưới đây gây ảnh hưởng không tốt cho thai nhi, hoặc không giúp ích gì cho sức khỏe của bé mà còn khiến cho bạn tăng cân quá nhanh.

– Các thực phẩm gây béo phì: Các thực phẩm nhiều đường; các chất nhiều tinh bột, nhiều dầu mỡ.

Các loại thịt gây đầy bụng, lâu tiêu: thịt trâu, thịt chó, ba ba …  (thức ăn nhiều đạm) là những thức ăn nên hạn chế với phụ nữ có thai vì đó là những thức ăn gây đầy, lâu tiêu ợ nóng, không tốt cho tiêu hóa.

– Các món ăn chưa nấu chín kỹ hoặc các loại mắm: Các món gỏi hay những món ăn chưa được nấu chín kỹ đôi khi là món sở trường của nhiều người. Nhưng những món ăn đó tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ có hại đối với sức khỏe con người, nhất là phụ nữ mang thai. Nếu bị nhiễm sán, khuẩn hoặc nhẹ hơn là đau bụng thì việc uống thuốc làm sao cho an toàn các bác sĩ cũng phải cân nhắc. Do vậy các bà bầu nên thận trọng khi lựa chọn thực phẩm an toàn cho mình cũng như để cho thai nhi.

– Các loại gia vị, thức ăn gây nóng: như ớt, tiêu, tỏi, giấm, hành, gừng nên ăn vừa phải.

– Các thực phẩm có thể gây co bóp tử cung: đu đủ xanh, rau ngót…

– Các thực phẩm hoạt huyết, đào thải ứ đọng trong cơ thể: ngải cứu, rau ngót (giã lấy nước uống)…

– Các loại đồ hộp (thịt hộp, cá hộp, cà chua, dưa chuột, dứa hộp) có chứa nhiều chất bảo quản để lâu hoặc quá hạn dễ gây rối loạl tiêu hóa.

Những thực phẩm cần tránh lúc mang bầu, Bà bầu, ba bau an gi, ba bau khong nen, mang thai, mang bau, suc khoe ba bau, bao phu nu,
Phụ nữ mang thai không nên ăn các món ăn có hàm
lượng thủy ngân cao. (Ảnh minh họa)

– Các món ăn có hàm lượng thủy ngân cao: Tránh ăn các loại cá có hàm lượng thủy ngân cao, bao gồm: cá kiếm, cá mập, cá thu và cá lát bởi vì hàm lượng thủy ngân có thể gây hại cho thai nhi, trẻ em, những phụ nữ đang hoặc sẽ mang thai thậm trí những cả những phụ nữ đang cho con bú.

– Các loại thực phẩm có chất màu phụ gia không đúng tiêu chuẩn, không có giá trị dinh dưỡng mà cơ thể là các chất gây độc hại cần hạn chế.

– Với vitamin A (dược phẩm): Vitamin A là loại vitamin có vị trí rất quan trọng đối với cơ thể con người, đặc biệt với trẻ nhỏ và cả thai nữa. Tuy vậy do tính chất “hai mặt” của vitamin A nên khi sử dụng phải rất thận trọng, phải có chỉ định của thầy thuốc. Ðáng tiếc là có một số bà mẹ do không hiểu rõ cứ tưởng uống vitamin A là tốt, nên khi có thai lại uống vitamin A liều cao. Ðã không cần thiết lại gây hại vì vitamin A liều cao có thể gây nên các rối loạn khi tạo thai và có thể cả quái thai.

– Các chất kích thích mạnh, gây nghiện: Là những chất bạn phải rất chú ý kiêng như: trà đặc, cà phê, rượu bia, thuốc lá, ma túy… Bởi những chất kích thích nàu đều có ảnh hưởng xấu tới sự phát triển thần kinh của thai (ngay thời kỳ cho con bú, nếu bạn dùng các chất kích thích, đứa con khó ngủ yên giấc và hay giật mình).

– Ðặc biệt với thuốc lá, với phụ nữ có thai, thuốc lá vô cùng nguy hiểm cho thai: như sảy thai và tỉ lệ trẻ chết chưa sinh cao; cân nặng trẻ sơ sinh kém từ 7-8 % (so với các trẻ có mẹ không nghiện hút) và 1/4 trẻ sơ sinh chết trong tuần đầu tiên; sự chuyển hóa chất Protéin ở thai bị rối loạn làm chậm sự hình thành xương và tổng hợp các chất cần cho sự sống ; đặc biệt nếu người mẹ hút thuốc nhiều 2-3 tuần đầu sau khi thụ thai thì hệ thần kinh trung ương của phôi bị ảnh hưởng nhiều nhất (thời kỳ hệ thần kinh được hình thành), còn trong tuần thứ 4-5 hệ thống tim mạch được hình thành sẽ bị nhiễm độc đầu tiên; gây chứng thiếu máu ôxy. Không thể không dẫn đến sự kém cỏi trí năng ở đứa trẻ sau này và nhiều di chứng khác.


Meo.vn (Theo Eva)

Bệnh rubella – Nguy hiểm cho phụ nữ mang thai

Trong 10 tháng đầu năm nay, rất nhiều thai phụ nhiễm rubella và đặc biệt đã có hàng trăm thai phụ sinh con ra bị những dị tật vì hậu quả của nhiễm rubella trong thai kỳ.

Ảnh minh họa: Nguồn: Vnexpress.net

Theo thống kê của Trung tâm chẩn đoán trước sinh – Bệnh viện Phụ sản Trung ương, trong vòng 10 tháng đầu năm 2011, Trung tâm đã tiếp nhận hơn 2.300 trường hợp mắc rubella đến hội chẩn. Độ tuổi của các thai phụ thường gặp nhất là từ 20-30 tuổi. Trong đó, các thai phụ đến từ Hà Nội nhiều nhất (558 trường hợp), tiếp đó là các tỉnh như Hải Dương, Hưng Yên, Phú Thọ, Nam Định, Quảng Ninh…

Cũng trong thời gian trên, khoa sơ sinh của Bệnh viện đã tiếp nhận 85 trẻ sơ sinh bị mắc rubella bẩm sinh, trong đó có 77 trẻ còn sống, 8 trẻ tử vong. Nguyên nhân là do có nhiều trường hợp thai phụ không chú ý đến biểu hiện sốt và biểu hiện phát ban, nhầm với các bệnh khác như dị ứng, nổi mẩn do trời nóng…

PGS.TS. Lê Anh Tuấn, Phó Giám đốc Bệnh viện phụ sản Trung ương cho biết, Rubella không đáng lo ngại ở những đối tượng bình thường nhưng lại đặc biệt nguy hiểm đối với phụ nữ mang thai, nhất là trong 3 tháng đầu của thai kỳ vì có thể gây sinh non, sảy thai, thai chết lưu, suy dinh dưỡng bào thai và đặc biệt là hội chứng Rubella bẩm sinh. Trẻ bị nhiễm Rubella trước khi sinh có nguy cơ bị một hoặc nhiều dị tật, bệnh lý bẩm sinh như: hở hẹp van tim, tồn tại ống động mạch, đục thủy tinh thể, điếc, các dị tật về xương dài, bại não, dị dạng ở não, phổi, cơ khớp, mắt, chậm phát triển về tâm thần, thể lực, có vấn đề ở gan, lá lách…

Ông Nguyễn Viết Tiến, Giám đốc Bệnh viện Phụ sản Trung ương cho hay, trước đây, thỉnh thoảng có một số trường hợp phụ nữ trong thời kỳ mang thai nhiễm rubella, nhưng những năm gần đây số lượng thai phụ nhiễm rubella đã tăng lên nhiều. Rubella không phải là một bệnh lý quá mới mẻ nhưng chúng ta vẫn còn gặp nhiều lúng túng trong theo dõi, xử lý, quản lý đối với những phụ nữ dính rubella trong thai kỳ, ông Tiến phân tích.

Mặt khác, do những hạn chế trong tiếp cận thông tin của nhiều sản phụ đã dẫn tới việc đình chỉ thai ngoài ý muốn. Chẳng hạn như trong năm 2011, cao điểm của dịch rubella là từ tháng 1 đến tháng 7 nhưng cho đến nay vẫn có nhiều thai phụ phải đình chỉ thai do nhiễm rubella. Nguyên nhân của tình trạng này là do nhiều người lo lắng đi tiêm vắc – xin nhưng khi tiêm về có thai ngay hoặc thậm chí có thai rồi không biết lại đi tiêm vắc – xin. Trong khi khuyến cáo là khi đã tiêm vắc – xin thì tối thiểu là sau 1 tháng mới được có thai. Vì vậy, theo khuyến cáo của các chuyên gia, việc các bà bầu nắm vững thông tin, rõ ràng và đầy đủ nhằm phát hiện sớm và kịp thời các triệu chứng của nhiễm virus rubella, cũng như cách phòng tránh là vô cùng cần thiết.

Hiện nay, tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương đã được chuyển giao kỹ thuật chọc ối để chẩn đoán thai nhi nhiễm Rubella, phương pháp này cho kết quả chính xác đến 95%.

 

Meo.vn (Theo ĐCSVN)

Bà bầu có nên ăn trứng vịt lộn không?

Hỏi: Hi, xin chào Meyeucon. Tôi muốn hỏi BS là bà bầu có nên ăn trứng vịt lộn không? Nếu ăn trứng vịt lộn hàng ngày có được không? Và lợi/hại như thế nào? Xin cảm ơn BS.

Trứng vịt lộn ngon bổ, nhưng bà bầu không nên ăn nhiều

Trả lời:

Trứng vịt lộn là thực phẩm giàu dinh dưỡng, rất tốt để bồi bổ sức khoẻ cho bà bầu, trẻ em, người mới khỏi ốm. Tuy nhiên, chính vì nó rất giàu dinh dưỡng, do vậy không nên ăn hàng ngày. Đối với người già và trẻ nhỏ chỉ ăn 1 quả/tuần, phụ nữ có thai 2 quả/tuần, nhưng không nên ăn 2 quả cùng lúc. Trứng vịt lộn không có hại nhưng do lượng đạm cao, ăn nhiều chậm tiêu, sinh nhiều cholesterol. Giai đoạn cuối thai kỳ lại càng phải lưu ý vì bà bầu “nạp nhiều năng lượng” quá cũng không tốt.

Chúc bạn vui khỏe.

Meo.vn (Theo Meyeucon)

Uống vitamin tổng hợp hằng ngày có mắc bệnh ung thư?

Tôi đã ngoài 40 tuổi, có cô bạn ở Mỹ thường mua thuốc vitamin tổng hợp cho tôi và gia đình cùng uống, mỗi ngày 1 viên, mỗi lứa tuổi một loại.

Cô ấy bảo lượng vitamin do thực phẩm cung cấp hằng ngày chưa đủ lượng vitamin cần thiết cho cơ thể, thôi thì cứ uống thế này cho chắc, đảm bảo sức khỏe. Nhưng mới đây, tôi lại thấy nói uống vitamin tổng hợp có thể mắc bệnh ung thư. Vậy xin BS tư vấn giúp tôi có nên uống vitamin tổng hợp hằng ngày không? (Đỗ Thu Quế – Bến Tre)

Ảnh minh họa

Trả lời:

Câu hỏi của bạn cũng là thắc mắc của nhiều bạn đọc, vì vậy, câu trả lời này để giải đáp cho các bạn quan tâm đến vấn đề “Sử dụng vitamin tổng hợp thế nào thì có lợi cho sức khỏe”.

Ở Mỹ, người ta sản xuất vitamin tổng hợp chứa từ 20 – 50 loại vitamin và khoáng chất với nhiều hàm lượng khác nhau dành cho nam, nữ đủ mọi lứa tuổi từ trẻ em đến người cao tuổi,  người bệnh đái tháo đường…

Các nhà khoa học Mỹ và nhiều nước châu Âu đã vào cuộc, với những nghiên cứu dài hơi hàng chục năm, trên hàng trăm ngàn người đã chứng minh mặt trái của các loại “vitamin tổng hợp uống ngày 1 viên” này.

Với nam giới, “vitamin tổng hợp uống ngày 1 viên” làm tăng tỷ lệ ung thư tiền liệt tuyến 30% so với người không dùng (kết quả của Viện Ung thư quốc gia Mỹ nghiên cứu trên 300.000 người).  

Với nữ giới, “vitamin tổng hợp uống ngày 1 viên”, tăng tỷ lệ ung thư vú 19% so với người không dùng (kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học Thụy Điển nghiên cứu trên 35.000 phụ nữ độ tuổi từ 49 – 83 trong hơn 10 năm).

Tuy vậy, những thông tin trên có thời lượng trên các kênh thông tin đại chúng chưa đến 0,1% so với quảng cáo của các hãng sản xuất vitamin tổng hợp, do đó nhiều người vẫn còn mù mờ, chưa biết thực hư thế nào, cứ dùng theo quảng cáo là chính.

Ở Việt Nam, Bộ Y tế chưa cho phép nhập khẩu loại “vitamin tổng hợp mỗi ngày 1 viên”  này,  vì vậy chỉ có một số ít người dùng thuốc này (do mua thuốc “xách tay” của người đi nước ngoài về hoặc được người thân gửi tặng).

Loại “vitamin tổng hợp mỗi ngày uống 1 viên” được phép lưu hành, có nhiều thứ như:  centrivit viên nang chứa 12 vitamin, astymin forte viên nang có 20 chất gồm vitamin và acid amin, vitacap viên nang mềm chứa 11 vitamin và 7 khoáng chất… các loại này chỉ dùng từng đợt, theo đơn bác sĩ.

Riêng obimin chứa 14 loại vitamin và muối khoáng dùng cho phụ nữ mang thai, thuộc loại vitamin uống thường xuyên hằng ngày suốt thời kỳ trước và sau khi đẻ.

Năm 2000, tôi thấy hàm lượng vitamin A trong viên obimin tới 6.000UI nên đã viết thư gửi cho Trưởng đại diện United Pharma (VN) Inc cảnh báo: “Hàm lượng vitamin A 6.000 UI/viên cho phụ nữ có thai dùng hằng ngày là dành cho người Âu – Mỹ có thể trọng 60 – 80kg.

Phụ nữ VN đa số chỉ khoảng 40 – 50kg thể trọng dùng liều này dễ sinh dị tật thai nhi, nhất là 3 tháng đầu. Chỉ khoảng 1-5% trẻ em sinh ra bị dị tật sẽ là gánh nặng cho gia đình và xã hội VN phải nuôi dưỡng những đứa con tàn tật”.  Vì vậy, nếu sản phẩm obimin muốn tồn tại trên thị trường VN phải giảm hàm lượng vitamin A xuống còn 2.500UI đến tối đa là 3.000UI/viên.

Cuối cùng, xin gửi tặng bạn đọc lời khuyên của TS. Susanna  C Larsson   (Viện Karolinska – Stockholm, Thụy Điển): “Nếu bạn có chế độ ăn uống đa dạng và người vẫn khỏe mạnh thì không cần sử dụng vitamin tổng hợp hàng ngày”.

Theo DS Trần Xuân Thuyết

Meo.vn (Theo Suckhoedoisong)