Lưu trữ cho từ khóa: người già

Người già bị táo bón có nên dùng thuốc nhuận tràng không?

Bố tôi năm nay 74 tuổi. Không hiểu lý do gì mà cụ rất hay bị táo bón mặc dù uống nước và ăn rau quả đều đặn. Xin hỏi, bố tôi có nên dùng thuốc nhuận tràng không và dùng thế nào?

Nguyễn Văn Trà (Nghệ An)

nguoi-gia-bi-tao-bon-co-nen-dung-thuoc-nhuan-trang-khong

Ảnh minh họa – Internet

Trên thị trường hiện nay, thuốc nhuận tràng để điều trị bệnh táo bón có rất nhiều loại khác nhau. Chủ yếu là:

Chất xơ và chất nhầy: Loại này bao gồm sợi thức ăn hoặc chất nhầy lấy từ tảo biển, trong đó thạch agar agar hay được dùng. Các thuốc này có tác dụng làm tăng thể tích phân và ngấm nước, được dùng để trị các chứng táo bón vô căn. Chống chỉ định trong các trường hợp nghi tắc ruột cơ học, loét hành tá tràng, cắt đoạn dạ dày.

Thuốc nhuận tràng và làm mềm phân: Dầu vaselin hoặc paraphin có tác dụng xổ cơ học bằng cách ngăn chặn sự hấp thu nước. Trong trường hợp trào ngược dạ dày thực quản, không dùng thuốc này trước khi đi ngủ để phòng dịch trào ngược vào đường hô hấp.

Các thuốc nhuận tràng thẩm thấu: Mục đích làm tăng áp lực thẩm thấu trong lòng ruột kéo theo nước vào trong lòng ruột, từ đó làm tăng lượng nước trong phân giúp bài tiết và tống xuất phân ra ngoài. Đại diện của nhóm thuốc này là macrogol (biệt dược forlax, fortrans), thường dùng để chuẩn bị soi đại tràng bằng cách cho uống với 2 – 3 lít nước, ngoài ra cũng được sử dụng trong điều trị táo bón mạn tính. Thuốc chống chỉ định ở các bệnh nhân viêm loét đại trực tràng, tắc ruột, ung thư trực tràng, mất nước, suy tim.

Các thuốc nhuận tràng kích thích nhu động: Đó là các acid ricinoleic, acid mật, dẫn xuất diphenylmethan, tác dụng qua nhiều cơ chế khác nhau. Đáng ý trong nhóm thuốc này có anthraquinolic gồm các sản phẩm tự nhiên là các aglycol của cây cascara, rhubarbe… những thuốc xổ thực vật này không hấp thu ở ruột non, chúng chỉ hoạt động khi đến đại tràng, gia tăng sự tống phân bằng cách kích thích tiết prostaglandin nội sinh, tuy nhiên, thuốc bị phân hủy bởi các vi khuẩn ở đại tràng nên các thuốc này mất tác dụng khi dùng kháng sinh diệt vi khuẩn chí ở ruột.

Thuốc nhuận tràng tác dụng tại chỗ: Các thuốc này làm phóng thích khoảng 50 – 100ml dịch trong lòng trực tràng và gây kích thích phản xạ đại tiện. Ngoài ra, có thể sử dụng thụt tháo với các chất nhầy hoặc thụt tháo vi lượng, thường hay dùng để chuẩn bị nội soi đại trực tràng hoặc cho táo bón khi nằm lâu để làm mềm phân, tuy nhiên, không được dùng kéo dài.

Tuy nhiên, tùy theo cơ chế tác dụng, bác sĩ sẽ chỉ định cho bệnh nhân dùng loại thuốc nào. Vì vậy, bạn nên đưa người nhà đến phòng khám chuyên khoa để được khám,  điều trị kịp thời.

BS. Hoa Tân

Theo Suckhoedoisong.vn

Phòng tránh biến chứng có thể gặp khi người cao tuổi bị sốt

Biến chứng hay gặp nhất là ở hệ thần kinh, nhẹ thì nhức đầu, chóng mặt, nặng hơn thì lơ mơ, mê sảng, thậm chí gây co giật.

Khi thời tiết thay đổi người cao tuổi, do đặc điểm sinh lý có nhiều thay đổi, hệ miễn dịch hoạt động kém hiệu quả dễ mắc một số bệnh như nhiễm khuẩn tại đường hô hấp, tiêu hóa… mà biểu hiện dễ nhận biết đầu tiên là sốt.

Tuy nhiên, nếu không biết cách xử trí thích hợp khi người cao tuổi bị sốt có thể xảy ra một số biến chứng, ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ.

phong-tranh-bien-chung-co-the-gap-khi-nguoi-cao-tuoi-bi-sot

Rối loạn nhịp tim là biến chứng dễ gặp khi người cao tuổi bị sốt

Nhiễm khuẩn – Nguyên nhân hàng đầu gây sốt ở người cao tuổi

Có rất nhiều nguyên nhân gây sốt ở người cao tuổi (NCT) nhưng hay gặp nhất là sốt do mắc bệnh nhiễm khuẩn.

Bệnh nhiễm khuẩn ở NCT có thể là đường hô hấp như viêm họng, viêm mũi, xoang, viêm phế quản, viêm phổi, ápxe phổi, lao phổi. Bệnh nhiễm khuẩn ở NCT cũng có thể gặp ở đường tiêu hoá như viêm ruột, viêm đường mật cấp hoặc bị viêm nhiễm ở đường tiết niệu hoặc bị các bệnh do virút gây ra như sốt xuất huyết, sốt phát ban, sốt rét…

Ngoài ra, người ta thấy NCT cũng có thể bị sốt không do bệnh nhiễm khuẩn như một số bệnh ung thư, bệnh về máu, gãy xương, bệnh nội tiết… Sốt có thể là sốt cấp tính hoặc sốt kéo dài. Sốt cũng có thể là sốt rất cao nhưng cũng có thể thân nhiệt chỉ vượt quá chỉ số bình thường từ 0,5 độ đến 1 hoặc 2 độ.

Sốt có thể được phân chia một cách tương đối như sốt nhẹ là thân nhiệt từ trên 37oC đến dưới 38oC; sốt trung bình là thân nhiệt từ 38oC đến dưới 39oC và sốt cao là khi thân nhiệt trên 39oC.

Một số biến chứng có thể xảy ra khi NCT bị sốt

Khi NCT bị sốt nếu không xử trí kịp thời thì rất có thể xảy ra một số biến chứng, thậm chí biến chứng nguy hiểm đến tính mạng, nhất là sốt ở một số bệnh nhân đang mắc bệnh mạn tính như bệnh tim mạch, tăng huyết áp, đái tháo đường, bệnh thận, bệnh thuộc hệ hô hấp (viêm phổi, hen suyễn, lao phổi, viêm phổi tắc nghẽn mạn tính… ).

Biến chứng hay gặp nhất là ở hệ thần kinh, nhẹ thì nhức đầu, chóng mặt, nặng hơn thì lơ mơ, mê sảng, thậm chí gây co giật. Đối với hệ tim mạch thì có thể gây mạch nhanh, rối loạn nhịp tim,  huyết áp tăng (nếu người bệnh có tiền sử tăng huyết áp thì rất nguy hiểm).

Sốt ở NCT cũng có thể gây buồn nôn, nôn, đau bụng, chán ăn hoặc ăn vào không tiêu, ậm ạch rất khó chịu. Khi sốt có thể làm cho NCT bị rối loạn nhịp thở như khó thở, thở nông và khi sốt cũng rất dễ gây nên tiểu tiện ít do nước được thoát ra theo đường bài tiết mồ hôi và như vậy sẽ ảnh hưởng đến chức năng bài tiết của thận.

Những điều cần làm và nên tránh

Điều cần làm

Trước hết cần cặp nhiệt kế xem sốt bao nhiêu độ. Thân nhiệt của người bình thường là 37oC với điều kiện là cặp nhiệt kế ở miệng hoặc ở hậu môn. Nhưng vì hầu hết là cặp nhiệt độ ở nách, vì vậy nếu cặp nhiệt độ ở nách thì phải cộng thêm 0,5 độ nữa mới đúng thân nhiệt thực.

Sốt có nghĩa là thân nhiệt vượt quá 37oC. Tuy vậy cũng có thể gặp một số trường hợp ở NCT tuy mắc bệnh nhiễm khuẩn nặng nhưng khi cặp nhiệt độ thì không thấy thân nhiệt tăng (không thấy sốt) thậm chí thân nhiệt còn hạ. Lý do có thể do sức đề kháng và phản xạ của cơ thể quá yếu, đặc biệt ở người bệnh tuổi cao, sức yếu, nằm lâu ngày, suy dinh dưỡng.

Khi người cao tuổi bị sốt cần được chăm sóc chu đáo, đảm bảo uống đủ nước, có thể là nước ép quả tươi như chanh, cam, xoài, dưa hấu… Ngoài ra, cần được uống thêm nước pha từ dung dịch osezol, uống thuốc hạ sốt và sử dụng kháng sinh nếu có nhiễm khuẩn.

Điều nên tránh

Đối với NCT khi bị sốt, tuyệt đối không được truyền dịch tại gia đình hoặc ở nơi không đủ điều kiện chống sốc. Bởi vì kỹ thuật truyền dịch thì nhiều y tá điều dưỡng có thể thực hiện được một cách thành thạo nhưng việc xử trí bị sốc (phản ứng) khi truyền dịch thì không phải ai cũng giải quyết được.

Đối với NCT bị sốt mà đang bị tăng huyết áp, cũng không truyền dịch. Khi dùng dùng thuốc hạ nhiệt, liều trung bình cho người lớn  là 0,5g mỗi một lần và sau từ 4 – 6 giờ có thể dùng lại, nếu vẫn còn sốt trên 38oC nhưng cần lưu ý là trong viên paracetamol dạng viên sủi có thêm thành phần muối bicacbonat natri nên những người có tăng huyết áp không nên dùng.

Ngoài ra, thuốc paracetamol nếu dùng dài ngày sẽ không tốt vì chúng có nhiều tác dụng phụ, ảnh hưởng đến chức năng gan.

PGS.TS Bùi Khắc Hậu

Theo Suckhoedoisong.vn

Khi nào nên mổ điều trị đục thủy tinh thể ở người già?

Phẫu thuật điều trị đục thủy tinh thể  được chỉ định khi bệnh đục thủy tinh thể (hay còn gọi là bệnh cườm khô) gây cản trở sinh hoạt, học tập và lao động.

Mẹ tôi 75 tuổi, đi khám mắt bị đục thủy tinh thể nên phải mổ. Xin bác sĩ tư vấn giúp, người già thì khi nào nên mổ điều trị đục thủy tinh thể? Khi đang bị ngứa, chảy nước mắt, viêm lệ đạo, dị ứng thì có được phẫu thuật điều trị đục thủy tinh thể không? – Tống Hải Vân (quận 4, TPHCM).

khi-nao-nen-mo-dieu-tri-duc-thuy-tinh-the-o-nguoi-gia

Ảnh minh họa.

TS.BS Trần Thị Phương Thu

, Giám đốc Bệnh viện Mắt kỹ thuật cao Phương Nam TPHCM:

Phẫu thuật điều trị đục thủy tinh thể  được chỉ định khi bệnh đục thủy tinh thể (hay còn gọi là bệnh cườm khô) gây cản trở sinh hoạt, học tập và lao động.

Như trường hợp của bà cụ thì phẫu thuật đục thủy tinh thể được chỉ định khi bệnh cản trở sinh hoạt hằng ngày như không thể xem tivi, không nhìn rõ được mặt của người khác khi người ấy ở cách mình một vài mét.

Ngoài ra, trong một số trường hợp thì phẫu thuật điều trị đục thủy tinh thể là chỉ định bắt buộc như đục thủy tinh thể gây ra bệnh Glaucoma (hay còn gọi là bệnh cườm nước). Khi mắt đang bị ngứa do dị ứng, chảy nước mắt không do nhiễm trùng hay khô mắt nặng, viêm lệ đạo nhưng khi bơm rửa, lệ đạo đã sạch, không tắc thì vẫn có thể được chỉ định phẫu thuật đục thủy tinh thể.

Theo Kienthuc.net.vn

Người già và chứng đau lưng

Đau lưng là bệnh mà hầu như ai cũng đã từng bị ít nhất một lần trong đời. Đây là bênh rất phổ biến thường gặp ở người tầm tuổi trung niên hoặc người già. Tìm hiểu về bệnh đau lưng ở người già sẽ phần nào giúp các cụ thấy khỏe mạnh và thoải mái hơn trong cuộc sống thường ngày.

dau khop

Nguyên nhân đau lưng ở người già

Đau lưng có hai loại nguyên nhân cơ bản sau đây: do tác động cơ học và do hiện tượng viêm.

– Đau lưng do tác động cơ học: đây là loại đau lưng hay gặp ở lứa tuổi đã trưởng thành và đặc biệt là người cao tuổi như: thoái hóa cột sống, thoát vị đĩa đệm, gai đôi cột sống… Thoái hóa cột sống thường hay xảy ra ở vị trí sụn khớp và đĩa đệm, bởi hiện tượng trọng lực của cơ thể quá nặng tác động hàng ngày lên cột sống và cả tác động của trọng lực đè lên vai gáy rồi tác động xuống hệ thống đốt sống (ví dụ như ngồi làm việc nhiều giờ không vận động). Khi cột sống bị thoái hóa, triệu chứng đau lưng được thể hiện khá sớm và cũng chính vì có hiện tượng đau lưng rất khó chịu mà buộc người bệnh phải đi khám. Ngoài các nguyên nhân do thoái hóa cột sống còn có những nguyên nhân thuộc về cơ học như mang vác nặng, thay đổi tư thế đột ngột hoặc bưng, bê không cân xứng…

– Đau lưng do hiện tượng viêm: trong các nguyên nhân gây viêm có thể xảy ra ngay tại cột sống như: viêm đĩa đệm, lao cột sống, ung thư cột sống, viêm khớp cùng chậu… Cũng có nhiều trường hợp đau lưng nhưng lại do viêm nhiễm ở một cơ quan khác trong cơ thể như: viêm phần phụ ở nữ giới (viêm tiểu khung, viêm buồng trứng…), viêm dạ dày – tá tràng, viêm đường tiết niết niệu (do sỏi hoặc do vi khuẩn)… Các loại bệnh kiểu như thế này thường gây đau lưng một cách âm ỉ và đau lưng cùng một lúc với các triệu chứng chính của bệnh (ví dụ như người bị đau dạ dày, sỏi tiết niệu). Những nguyên nhân này cũng thường gặp ở người cao tuổi nhiều hơn người còn trẻ tuổi.

Cách phòng bệnh đau lưng ở người già

Nên giúp các cụ phòng ngừa bằng cách hỗ trợ hoặc giúp tránh các căng giãn không cần thiết cho cơ bắp và cũng để tăng cường sức mạnh cho các bắp thịt hỗ trợ cột sống.

Nệm xe đều gây đau lưng khi ngồi quá lâu. Khi phải chở các cụ đi đâu nên lót lưng với một cái gối nhỏ và để tay trên vật tựa; kéo ghế gần về phía trước để đầu gối cao bằng hông.

Trừ những trường hợp đặc biệt, còn lại nên thuyết phục các cụ ngủ trên nệm cứng; nằm nghiêng, đầu gối co thước thợ hoặc khi nằm ngửa thì lót gối dưới khuỷu chân. Gối cao vừa phải để đầu và mình ngang bằng.

Khi cần coi tivi hoặc đọc sách lâu, nên nằm để tránh căng cho xương sống.

Mua sắm quần áo cho các cụ không nên quá bó sát vào người để cơ bắp, xương khớp không bị gò bó…

Cũng nên chú ý hướng dẫn các cụ khi mang vật nặng, không nên khom lưng xuống để nhấc vật đó lên, mà ngồi xuống, hai tay ôm cầm vật đó rồi từ từ đứng lên qua sức mạnh của đầu gối, như vậy tránh được sự tổn thương cho lưng.

Khi vật nặng nằm ở trên bàn, ta có thể ôm vào bụng hay quay lưng ôm đồ vật vào lưng để mang đi. Đừng đi giày gót quá cao, làm xương sống xiêu vẹo, yếu. Giữ dáng điệu ngay ngắn.

Đặc biệt với người lớn tuổi cần tập thế khi đứng, bụng thót phẳng, hướng xương chậu về phía sau sẽ giúp phần dưới của cột sống vững hơn. Nếu cần đứng lâu thì đặt một chân lên vật cao khoảng hai tấc để ngả xương chậu về phía sau.

Ngồi lâu đều gây nhiều khó chịu cho lưng. Vì thế lâu lâu nên đứng dậy, đi qua đi lại, thư giãn xương lưng. Tránh ngồi trên nệm ghế quá mềm.

Tập thể dục với các cử động làm thư giãn khớp xương và bắp thịt, tăng cường sức mạnh cho bắp thịt, dây chằng ở lưng.

Buổi sáng ngủ dậy, trước khi bước ra khỏi giường nên tập các cử động vẹo người qua lại để thư giãn lưng. Lý do là sau bảy giờ nằm ngủ, xương khớp, bắp thịt cứng lại, nếu đứng dậy ngay có thể té ngã, gây tổn thương cho lưng và các phần khác của cơ thể.

Không hút thuốc lá vì nicotine làm giảm máu lưu thông tới lưng khiến cơ khớp yếu. Giảm cân nếu quá mập, vì mập phì làm mô mềm ở lưng căng cương. Hai phần ba người bị đau lưng kinh niên đều bị béo phì.

Người già khi đã bị đau lưng thì nên khám bệnh định kỳ, để bác sĩ sẽ có chỉ định điều trị. Trong điều kiện cho phép, có thể điều trị Đông – Tây y kết hợp, ví dụ như uống thuốc Tây y kết hợp xoa bóp, châm cứu, bấm huyệt hoặc vật lý liệu pháp.

Nhận biết chứng sa sút trí tuệ ở người già

Ở người già, các cơ quan đều bị suy giảm chức năng.

Dù do nguyên nhân nào thì người mắc bệnh này cũng sẽ trải qua sự suy giảm không thay đổi được cả về chức năng và trí tuệ, kéo dài từ 2 đến 10 năm. Cuối cùng, bệnh nhân trở thành người lệ thuộc hoàn toàn và thường tử vong do các bệnh nhiễm trùng.

nhan-biet-chung-sa-sut-tri-tue-o-nguoi-gia

Ảnh minh họa – Internet

Sa sút trí tuệ là sự suy giảm chức năng trí tuệ và những lĩnh vực khác về nhận thức, dẫn đến giảm khả năng hoạt động sống hàng ngày. Đây là một trong những rối loạn ảnh hưởng trầm trọng nhất đến người cao tuổi.

Đặc trưng của bệnh là sự suy giảm nhận thức xảy ra trong tình trạng ý thức vẫn bình thường. Đó không phải là loại rối loạn nhận thức có thể hồi phục như mê sảng hay trầm cảm.

Tần suất mắc bệnh sa sút trí tuệ tăng nhanh theo tuổi. Ở tuổi sau 60, tỷ lệ này tăng gấp đôi mỗi 5 năm. Ở tuổi 60-64, chỉ có 1% bị sa sút trí tuệ, nhưng đến tuổi trên 85 thì tỷ lệ này là 30-50%.

Cần phân biệt sa sút trí tuệ và quên lành tính do tuổi. Quên lành tính do tuổi là tình trạng giảm trí nhớ do tuổi cao, là kết quả của tiến trình hoạt động thần kinh chậm dần do tuổi tác.

Khởi đầu của quên lành tính là tình trạng khó nhớ thông tin mới và chậm nhớ lại thông tin cũ do suy giảm khả năng tập trung và chú ý. Tuy nhiên, khi cho bệnh nhân thời gian và có biện pháp động viên thì việc sinh hoạt hằng ngày của họ vẫn bình thường

Biểu hiện thường gặp nhất của sa sút trí tuệ giai đoạn sớm là giảm trí nhớ gần. Bệnh nhân có thể quên điều mình vừa nói và lặp đi lặp lại câu này nhiều lần trong vài phút. Họ thường xuyên quên nơi để những vật dụng cá nhân. Tình trạng quên kéo dài và dẫn đến tâm lý hoang tưởng là bị mất trộm.

Trong giai đoạn sớm này, bệnh nhân cũng gặp khó khăn khi tìm từ diễn đạt ý mình muốn nói hoặc giải thích một điều gì đó. Họ thường phải nói vòng vo, chẳng hạn như không nhớ từ cà vạt nên phải mô tả nó là một vật quấn quanh cổ áo.

Ngoài ra, bệnh nhân cũng có thể quên hay khó khăn trong việc sử dụng hoặc làm những công việc hằng ngày như lái xe, giữ tiền, nấu ăn…

Những biểu hiện khác của sa sút trí tuệ giai đoạn sớm là thay đổi cá tính, rối loạn cảm xúc và giảm sự phán đoán. Người bệnh có những hành động không giống như họ đã từng làm, chẳng hạn như một người keo kiệt đột nhiên tặng cho hội từ thiện vài chục triệu đồng. Những thay đổi tính khí khác như trầm cảm hay hoang tưởng cũng thường xảy ra.

Cần lưu ý trong giai đoạn sớm này, hoạt động xã hội của người sa sút trí tuệ vẫn không bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, họ thường có những thay đổi về tính khí như cáu gắt, tàn nhẫn, kích động…

Sự ổn định trí tuệ của bệnh nhân cũng khá mỏng manh. Trong những tình huống khó khăn hay bức xúc thì sự suy giảm trí tuệ có thể biểu lộ rõ rệt, chẳng hạn như khi phải đi một quãng đường xa để thăm con cháu thì họ có thể đi lạc hay mất định hướng, đi vòng vo.

Ở mức độ trung bình, bệnh nhân bị giảm khả năng thực hiện các công việc thường ngày như tắm rửa, mặc đồ, vệ sinh cá nhân. Họ không thể nhớ được thông tin mới, mất định hướng về không gian và thời gia, có thể quên những sự vật xung quanh mình như quên nhà vệ sinh, phòng ngủ ở đâu.

Người bệnh cũng dễ bị ngã hoặc có tai biến do sự nhầm lẫn và giảm phán đoán. Những rối loạn hành vi có từ giai đoạn sớm vẫn kéo dài đến giai đoạn trung bình và nặng. Hoang tưởng và ảo giác xuất hiện ở khoảng 25% bệnh nhân.

Ví dụ: Khi bệnh nhân mất khả năng nhận ra chính bản thân mình trong gương thì họ lại nghi ngờ là có người lạ vào nhà. Sự lệch lạc này có thể ngày càng nặng và kéo dài. Bệnh nhân cũng có những biểu hiện rối loạn hành vi và trở nên kích động.

Ở giai đoạn nặng, bệnh nhân không thể thực hiện những sinh hoạt hàng ngày như ăn uống, vệ sinh cá nhân, đi lại và lệ thuộc hoàn toàn vào người thân. Trí nhớ ngắn hạn, dài hạn bị mất hoàn toàn.

Bệnh nhân không nhận biết được kể cả những người rất thân của mình, mất đi những khả năng vận động phản xạ khác như nuốt (nên dễ bị rối loạn dinh dưỡng và sặc thức ăn). Kết hợp với tình trạng kém dinh dưỡng và ít vận động, nằm liệt giường, bệnh nhân có thể bị loét da.

Ở giai đoạn muộn của sa sút trí tuệ, bệnh nhân sẽ bị tăng tần suất các tai biến; chẳng hạn như biến chứng của việc mất nước, kém dinh dưỡng, viêm phổi hít, loét da. Sự lệ thuộc hoàn toàn vào người khác có khi đưa bệnh nhân đến tình huống phải vào nhà dưỡng lão. Nếu tiếp tục ở tại nhà, người chăm sóc và bệnh nhân phải được trang bị những thiết bị cần thiết khác.

Khi nghi ngờ người thân bị sa sút trí tuệ, bạn hãy đưa họ đến khám tại các phòng khám chuyên khoa tâm thần, thần kinh hoặc lão khoa.

Theo Suckhoedoisong.vn

Những điều người cao tuổi nên tránh

Người già không nên quay đầu quá nhanh. Khi làm như vậy, các mạch máu dẫn máu lên não có thể bị chèn ép đột ngột, gây tình trạng thiếu máu não, dẫn ngất, hôn mê, thậm chí đột tử.

Khi đã ở vào độ tuổi trên 65, cơ thể con người có nhiều chức năng bị suy giảm như hô hấp, tuần hoàn, tiêu hóa, tiết niệu… So với độ tuổi 20-30, các chức năng sinh lý của con người ta ở độ tuổi 65-70 chỉ còn khoảng 60%. Vì thế, việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe ở độ tuổi này bao gồm việc bồi bổ cơ thể và tránh các việc làm bất lợi.

nhung-dieu-nguoi-cao-tuoi-nen-tranh

Ảnh minh họa – Internet

Sau đây là những điều mà người cao tuổi nên tránh:

1. Ăn quá no: Hệ tiêu hóa do không còn sức hoạt động mạnh như thời trẻ nên nhu động ruột giảm, khả năng hấp thu thức ăn, đào thải chất độc cũng giảm. Vì vậy, nếu ăn no quá, người cao tuổi sẽ bị đầy chướng.

2. Uống rượu bia quá say: Khi tuổi cao, hệ tuần hoàn giảm, chức năng hoạt động, khả năng đàn hồi của mạch, sức bền thành mạch kém, chức năng bài tiết cũng không còn tốt. Vì vậy, thời gian phân hủy kéo rượu dài, dẫn tới nguy cơ ngộ độc rượu cao lên.

3. Uống đồ uống quá lạnh: Các loại đồ uống này sẽ làm thay đổi môi trường vùng họng và thực quản, rất dễ làm vi khuẩn phát triển, gây bệnh viêm họng và gây co thắt thực quản đột ngột.

4. Ăn những thức ăn quá cứng.

5. Lơ là với việc kiểm tra sức khỏe định kỳ: Người cao tuổi cần đặc biệt quan tâm tới các biểu hiện bất thường về tim mạch, huyết áp cũng như các biểu hiện bất thường về mắt do có mối liên quan rất chặt chẽ giữa bệnh về mắt và bệnh tiểu đường.

6. Lao động gắng sức, nhất là khi thấy mệt mỏi, đói, choáng váng đầu óc.

7. Xúc động thái quá: Bất kể trong tình huống nào, người cao tuổi cũng không nên quá vui hoặc quá buồn. Vui quá sẽ làm tim mệt mỏi, buồn quá dễ dẫn tới chứng trầm cảm.

8. Tắm nước quá nóng: Nước nóng sẽ làm cho việc cung cấp máu trong cơ thể mất cân đối, một lượng máu tới vùng da, cơ sẽ tăng lên, máu cho não lại giảm đi, dẫn đến tình trạng thiếu máu não.

9. Ngồi đại tiện ở bệ xí xổm: Việc đứng lên, ngồi xuống sẽ gây khó khăn cho người cao tuổi khi đi đại tiện. Hơn nữa, do cơ vòng vùng hậu môn của người cao tuổi không còn đủ trương lực như khi còn trẻ nên việc ngồi đại tiện trên bệ xí xổm rất dễ gây bệnh trĩ.

Theo Suckhoedoisong.vn

Các biện pháp giúp ngăn ngừa loãng xương sớm

Bệnh loãng xương thường xuất hiện ở những người độ tuổi trung niên trở lên. Đây là một căn bệnh khá phổ biến. Bệnh loãng xương thường khiến cho mọi người bị đau buốt các phần xương , đặc biệt là xương đầu gối, xương cột sống… Dưới đây là một số biện pháp cơ bản giúp bạn phòng ngừa được nguy cơ loãng xương.

1. Thường xuyên vận động

Vận động thường xuyên vào sáng và tối là những biện pháp cơ bản nhất giúp bạn phòng ngừa các triệu chứng loãng xương cũng như giúp bạn có cơ thể dẻo dai, khỏe mạnh. Việc vận động thường xuyên như tập thể dục, chơi thể thao sẽ giúp bạn ngăn ngừa được tình trạng loãng xương sớm. Ngoài ra biện pháp vận động cũng là một trong những biện pháp trị liệu vật lý dành cho những người bị loãng xương.

loang xuong

Loãng xương có thể mang lại tác hại rất lớn cho cơ thể bạn

2. Chế độ ăn uống hợp lý

Bất cứ lúc nào thì chế độ ăn uống cũng là vô cùng quan trọng. việc bạn ăn uống đủ chất sẽ giúp cho cơ thể bạn có đủ năng lượng và dinh dưỡng trong những hoạt động thường ngày. Đặc biệt với bệnh nhân loãng xương thì càng nên ăn nhiều các đồ ăn có bổ xung canxi như tôm, cua, trứng, sữa….

3. Tắm nắng

Các nhà nghiên cứu đã cho biết rằng có tới 50 – 80% lượng vitamin D3 trong cơ thể là được hấp thụ từ ánh nắng mặt trời. vì vậy nếu bạn tắm nắng khoảng 15 phút mỗi sáng sớm thì sẽ giúp kích thích vitamin D dưới da phát triển. giúp cho cơ thể phòng tránh được bệnh loãng xương.

Tuy nhiên bạn không nên tắm nắng vào lúc ánh sáng mặt trời chiếu mạnh, đặc biệt là khoảng thời gian giữa trưa, vì lúc đó tia cực tím có trong ánh nắng mặt trời sẽ gây một số tác hại tới sức khỏe của bạn.

4. Kiêng các chất kích thích

Các chất kích thích như rượu, bia, thuốc lá và các chất gây nghiện chính là kẻ thù của xương. Việc bạn thường xuyên tiếp xúc, sử dụng thuốc lá, rượu bia sẽ làm gia tăng khả năng loãng xương, làm rối loạn quá trình hấp thu canxi của xương trong cơ thể bạn.

5. Tăng cường canxi

Bạn có thể tăng cường canxi trong cơ thể bằng cách ăn uống các thực phẩm có bổ xung canxi, hoặc trực tiếp sử dụng các đồ uống có bổ xung canxi. Hiện nay trên thị trường cũng đã có rất nhiều thực phẩm chức năng cũng như các loại sữa bột bổ xung can xi cho cơ thể.

Người già uống sữa dành cho trẻ em có được không?

Nếu người lớn sức khoẻ bình thường, không mắc các bệnh rối loạn chuyển hóa mạn tính vẫn có thể sử dụng được.

Tôi được tặng sữa bột công thức dành cho trẻ em từ 0 – 6 tháng tuổi, nhưng gia đình không có trẻ nhỏ. Xin bác sĩ tư vấn giúp là người lớn, người già thì có uống sữa này được không?

Đặng Kim Thành (quận 2, TPHCM)

nguoi-gia-uong-sua-danh-cho-tre-em-co-duoc-khong

Ảnh minh họa.

BSCKI Nguyễn Thị Ánh Vân

, Phó trưởng khoa Dinh dưỡng Lâm sàng, Trung tâm Dinh dưỡng TPHCM:

Sữa bột công thức dành cho trẻ em sẽ thay đổi tùy theo nhu cầu phát triển của trẻ ở mỗi độ tuổi khác nhau. Trong thành phần tỷ lệ đạm béo luôn cao hơn so với nhu cầu của người lớn.

Nếu người lớn sức khoẻ bình thường, không mắc các bệnh rối loạn chuyển hóa mạn tính vẫn có thể sử dụng được, nhưng phải được tính toán nhu cầu năng lượng, tỷ lệ các chất dinh dưỡng và trừ bớt các thực phẩm khác trong ngày. Sữa công thức này không phù hợp với người lớn tuổi, béo phì, dư cân hoặc đang mắc các bệnh rối loạn chuyển hóa như đái tháo đường, tăng mỡ máu.

Theo Kienthuc.net.vn

Người già đi tiểu nhiều vào buổi dêm là bệnh gì?

Tôi năm nay 65 tuổi, đêm nào cũng phải đi tiểu 3 – 4 lần khiến mất ngủ kéo dài. Xin bác sĩ cho biết, tôi mắc bệnh gì và cách khắc phục? – (Trần Văn Toàn).

nguoi-gia-di-tieu-nhieu-vao-buoi-dem-la-benh-gi

Trong những biến đổi sinh lý của người cao tuổi thì tình trạng đi tiểu đêm rất phổ biến. Giấc ngủ của người cao tuổi thường ngắn hơn so với người trẻ và ở nhiều người, điều đó còn bị chi phối do buồn đi tiểu nhiều lần trong đêm, đây là một khó khăn cho cuộc sống người cao tuổi.

Có rất nhiều nguyên nhân nhưng thông thường do những yếu tố sau: Cơ chế ức chế của não đối với phản xạ ở bàng quang bị suy giảm khiến người cao tuổi dễ buồn tiểu hoặc do xuất hiện sự phì đại ở tuyến tiền liệt với các u lành (phì đại tuyến tiền liệt thường do u lành, hiếm gặp u ác tính). Do tiền liệt tuyến nằm ở ngay đáy bàng quang và bao bọc niệu đạo, khi tuyến này xuất hiện các u phì đại sẽ chèn ép cổ bàng quang gây tiểu khó và tiểu không hết nên bàng quang rất chóng đầy. Hơn nữa, tình trạng giãn các tĩnh mạch ở đây làm giảm sự lưu thông máu tại tiền liệt tuyến, gây ra phù nề niêm mạc tại vùng cổ bàng quang.

Vì vậy, đối với những người tiểu đêm do tuổi già suy giảm thần kinh ở não, cần phải khắc phục bằng cách hạn chế ăn nhiều canh, uống nước vào buổi tối, trước khi đi ngủ nhớ đi tiểu. Nếu tiểu nhiều có nguyên nhân từ bệnh lý, cần đi khám xem mức độ bệnh cụ thể để được điều trị. Có nhiều trường hợp được điều trị bằng thuốc hoặc có thể nội soi, phẫu thuật cắt bỏ u.

Vì vậy, khi khắc phục tiểu đêm như trên mà không giảm, bác nên đến cơ sở y tế để được khám và điều trị.

BS. Nguyễn Văn Long

Theo Suckhoedoisong.vn

Nguyên nhân gây suy tuyến giáp ở người già

Ở người già, nhiều khi có các biểu hiện như: Mệt mỏi, ăn uống kém không rõ nguyên nhân lại là triệu chứng của một bệnh có ảnh hưởng đến toàn thân, đó là bệnh suy tuyến giáp. Các triệu chứng của bệnh suy giáp thường xuất hiện từ từ, không rầm rộ nên rất dễ bị nhầm lẫn với những dấu hiệu của tuổi già.

Suy tuyến giáp là gì?

Tuyến giáp trạng là một tuyến nội tiết hết sức quan trọng của cơ thể. Tuyến này nằm ngay phía trước cổ, có hai thùy bên phải và thùy bên trái, với trọng lượng khoảng 20 gram.

Tuyến giáp tiết ra các hormon thyroxine (T4) và tri-iodothyronine (T3) có vai trò quan trọng trong việc điều hòa các chuyển hóa của cơ thể như tăng cường quá trình trao đổi chất, kích thích sinh trưởng và phát dục, kích thích tim co bóp, tăng chuyển hóa tạo thân nhiệt, kích thích hoạt động của hệ thần kinh…

nguyen-nhan-gay-suy-tuyen-giap-o-nguoi-gia

Khi tuyến giáp bị suy giảm hoặc mất hoàn toàn chức năng, các hormon sản xuất ra quá ít nội tiết tố, không đủ đáp ứng cho nhu cầu của cơ thể. Nếu không được chẩn đoán và điều trị sớm sẽ dẫn đến các rối loạn về chuyển hóa, các bệnh tim mạch, nội tiết, tâm thần. Hậu quả của các rối loạn này là làm suy giảm sức khỏe và chất lượng sống.

Theo ước tính, số người già bị suy tuyến giáp chiếm từ 5 – 20% ở nữ giới và từ 3 – 8% ở nam. Con số này gia tăng theo độ tuổi và trong nhiều trường hợp, suy tuyến giáp bị chẩn đoán nhầm với các bệnh lý chung chung như suy nhược cơ thể, suy nhược thần kinh hoặc không có điều kiện xét nghiệm để xác định một cách rõ ràng các mức độ của suy tuyến giáp.

Nguyên nhân gây suy tuyến giáp ở người già

Có nhiều nguyên nhân gây ra suy giảm chức năng tuyến giáp ở người già. Suy tuyến giáp do viêm tuyến giáp Hashimoto là nguyên nhân thường gặp nhất. Đây là một bệnh có tính chất tự miễn dịch hay cơ thể tự sản xuất ra kháng thể kháng lại các tế bào tuyến giáp. Bệnh này có thể xuất hiện sau một nhiễm vi khuẩn hoặc virut và trong nhiều trường hợp là không rõ nguyên nhân.

Nguyên nhân thứ hai cũng rất hay gặp đó là suy tuyến giáp do dùng thuốc kháng giáp tổng hợp ở những bệnh nhân bị cường tuyến giáp. Thuốc kháng giáp trạng có tác dụng khống chế việc sản xuất quá nhiều hormon tuyến giáp ở những bệnh nhân cường giáp nhưng nếu dùng quá liều và không được kiểm soát lại có thể gây suy tuyến giáp.

Phẫu thuật cắt bỏ tuyến giáp một phần hoặc toàn bộ trong bệnh basedow hoặc ung thư tuyến giáp… cũng là nguyên nhân gây suy tuyến giáp. Xạ trị vùng đầu mặt cổ (như trong bệnh ung thư vòm họng) có thể làm tuyến giáp bị tổn thương và dẫn đến suy giảm chức năng. Tuyến giáp cũng có thể bị suy giảm chức năng khi dùng một số thuốc như amiodarone, lithium, interferon… kéo dài hoặc quá liều.

Ngoài ra, chế độ ăn thiếu iod kéo dài có thể gây suy tuyến giáp, trái lại việc đưa quá nhiều iod vào cơ thể lại cũng làm tuyến giáp bị giảm chức năng. Tuyến giáp hoạt động được là nhờ hormon kích giáp tố do tuyến yên sản xuất ra nên khi lượng kích giáp tố bị suy giảm do suy tuyến yên (do ung thư, do bệnh mạch máu…) thì tuyến giáp cũng bị suy theo và lượng hormon tiết ra sẽ giảm. Ngoài ra, suy tuyến giáp ở người già cũng gặp ở bệnh nhân xơ cứng bì, bệnh amyloidosis hoặc một số trường hợp bệnh lý khác gây tổn thương tuyến giáp.

Biểu hiện âm thầm

Biểu hiện của suy tuyến giáp ở người già thường kín đáo do tuyến giáp bị suy giảm từ từ nên triệu chứng không rầm rộ và thường lẫn với các biểu hiện khác hay có ở tuổi già như ăn uống kém, mệt mỏi, hay quên…

Do chuyển hóa cơ bản giảm nên bệnh nhân luôn có cảm giác ớn lạnh, sợ lạnh, chịu lạnh kém. Táo bón là triệu chứng hay gặp và nhiều khi là biểu hiện duy nhất gợi ý bệnh nhân bị suy tuyến giáp. Các dấu hiệu khác của suy giáp cũng thường có tuy ít rõ rệt hơn ở người trẻ như phù niêm mặt trước xương chày, da khô, rụng tóc, huyết áp thấp, mạch chậm, khàn giọng, đau mỏi cơ, cứng khớp, tăng cân, cholesterol máu tăng cao. Bên cạnh đó, suy tuyến giáp cũng là nguyên nhân gây suy tim và các bệnh lý thần kinh ngoại biên ở người cao tuổi. Nói chung, bệnh cảnh suy tuyến giáp ở người cao tuổi ít rầm rộ và nhiều khi khó phát hiện hơn ở người trẻ.

nguyen-nhan-gay-suy-tuyen-giap-o-nguoi-gia

Điều trị thế nào?

Khi đã xác định được tình trạng suy tuyến giáp ở người già, liệu pháp cơ bản là cho bệnh nhân dùng hormon tuyến giáp thay thế. Loại hormon tổng hợp thường được dùng là levothyroxine. Nếu suy tuyến giáp có nguyên nhân do tuyến yên suy giảm tiết chất kích giáp tố như u tuyến yên, có thể xem xét chỉ định phẫu thuật kết hợp với dùng levothyroxine. Dừng các thuốc gây suy tuyến giáp nếu nghi ngờ suy tuyến giáp do thuốc. Ngoài ra, các biện pháp hỗ trợ khác có thể được xem xét như cho thuốc chống táo bón, cân bằng chế độ dinh dưỡng… để giúp bệnh nhân chóng hồi phục.

Để phát hiện sớm suy giáp, người cao tuổi cần đi khám bệnh thường xuyên theo định kỳ hoặc khi có bất cứ biểu hiện nghi ngờ nào.

Hôn mê do suy tuyến giáp là một biến chứng rất nặng, tỷ lệ tử vong cao. Hôn mê do suy giáp thường xảy ra ở người cao tuổi (trên 60), có tiền sử suy chức năng tuyến giáp lâu ngày, nhất là khi có sử dụng một số thuốc giảm đau, chống trầm cảm, các thuốc gây tê, gây mê.

Biểu hiện lâm sàng chính là giảm thân nhiệt; trụy tim mạch, hạ natri máu nặng và đặc biệt bệnh nhân có các biểu hiện của đường hô hấp như thở chậm, khò khè, có thể có rối loạn nhịp thở, suy hô hấp, tăng C02. Đây là hậu quả của bệnh lý phù niêm của đường hô hấp. Vì vậy, bệnh suy giáp nếu không được chẩn đoán và điều trị sớm sẽ dẫn đến các rối loạn về chuyển hóa, các bệnh tim mạch, nội tiết, tâm thần. Hậu quả của các rối loạn này là làm tình trạng suy giảm sức khỏe, suy giảm chất lượng sống. Nếu suy giáp được phát hiện và điều trị sớm, bệnh nhân sẽ phục hồi nhanh chóng và tiết kiệm rất nhiều chi phí.

Tiến sĩ, Bác sĩ Vũ Đức Định

Theo Suckhoedoisong.vn