Nếu vợ chồng bạn quan hệ tình dục sau khi tắm khiến cơ quan sinh dục bị xung huyết và hệ tuần hoàn máu bị mất cân bằng dẫn đến thiếu máu cục bộ và gây hậu quả nghiêm trọng.
Ngủ sau khi quan hệ sẽ ảnh hưởng tới tâm lý của đối phương và điều đó là không nên.
Ngủ luôn sau khi quan hệ xong
Có rất nhiều người thường có thói quen ngủ luôn sau khi quan hệ điều này hoàn toàn không ảnh hưởng tới sức khỏe của cả 2 nhưng lại ảnh hưởng đến tâm lý của đối phương.
Thông thường sau khi “hành sự” xong, cơ thể khá mệt mỏi vì phải dùng sức khá nhiều trong “chuyện ấy” nhưng dù có mệt tới đâu bạn cũng nên dành 1 khoảng thời gian cho bạn tình của mình để chia sẻ và hiểu nhau hơn.
Nguyên nhân có thói quen này là do sau khi gần gũi và vai trò là người chủ động, nam giới thường bị mất năng lượng và mệt mỏi. Còn phụ nữ sẽ có cảm giác không được tôn trọng, hụt hẫng.
Chị em thường có tâm trạng chán ngán, mất cảm xúc hoặc ngại ngùng, lâu dần sẽ mất hứng thú cho những lần sau. Thậm chí, không ít chị em còn cho rằng chồng mình làm “chuyện ấy” chỉ vì nghĩa vụ, từ đó họ nảy sinh tâm trạng, suy nghĩ tiêu cực và dẫn tới mất hết cảm xúc, gây ra lãnh cảm.
Quan hệ tình dục là hành động lãng mạn trong tình yêu, khi quan hệ cơ thể bạn sẽ phải làm việc khá nhiều vì vậy không tránh khỏi những mệt mỏi, nhưng bạn cũng nên chú ý những yếu tố có thể ảnh hưởng tới sức khỏe của bạn và lưu ý tới cảm xúc của “đối phương” để 2 người cùng được cảm nhận sự tuyệt vời này.
Quan hệ sau khi chàng uống rượu
Các nhà khoa học đã chỉ ra rằng, cơ thể nam giới sau khi uống rượu bia ham muốn làm “chuyện ấy” sẽ tăng lên nhiều lần so với bình thường.
Tuy nhiên, bạn hoàn toàn không nên quan hệ lúc này bởi sau khi uống rượu, máu sẽ bơm về “cậu nhỏ” nhiều hơn nhưng không hề khỏe mạnh và sung mãn như bình thường, nếu cố tình quan hệ lúc này sẽ dễ dẫn đến các căn bệnh về nam khoa như: khó cương cứng, xuất tinh sớm, rối loạn cương dương …
Sau khi tắm nước nóng
Khi đó, tuần hoàn máu trong cơ thể sẽ tăng nhanh, mạch máu dưới da sẽ mở ra. Lúc này, nếu vợ chồng bạn quan hệ tình dục ngay sẽ khiến cho cơ quan sinh dục bị xung huyết và hệ tuần hoàn máu bị mất cân bằng dẫn đến thiếu máu cục bộ và gây hậu quả nghiêm trọng, ví dụ như choáng, ngất…
ANTĐ – Một nghiên cứu mới đây cho thấy phụ nữ mang thai mắc bệnh tiểu đường tăng gấp 3 lần nguy cơ bị các nhiễm trùng nguy hiểm so với thai phụ không mắc bệnh tiểu đường.
Dạng nhiễm trùng nguy hiểm có thể do MRSA (tụ cầu vàng kháng methicillin).
Nghiên cứu cho thấy tăng nguy cơ có liên quan với bệnh tiểu đường ảnh hưởng tới phụ nữ mang thai. Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu thuộc đại học California, Los Angeles thì nguy cơ không xảy ra ở thai phụ không mắc bệnh tiểu đường.
Ảnh minh họa Các kết quả này được đưa ra sau khi nhóm nghiên cứu phân tích dữ liệu gồm hơn 3,5 triệu phụ nữ tại một bệnh viện. Họ phát hiện 5% số bà mẹ bị tiểu đường trong thời gian mang thai và 1% bị tiểu đường trước khi mang thai. Có 600 ca nhiễm MRSA ở các bà mẹ sau khi sinh. Nguồn nhiễm hay gặp nhất là qua da, đường tiết niệu, cơ quan sinh dục, nhiễm trùng vết thương và nhiễm trùng máu.
Mặc dù nghiên cứu phát hiện ra mối liên quan giữa nguy cơ nhiễm MRSA ở thai phụ mắc bệnh tiểu đường song không chứng minh mối quan hệ nhân quả.
Nấm miệng Candida là bệnh thường gặp khiến trẻ phải đến khám tại phòng khám Nhi, cũng như phải mua thuốc tại hiệu thuốc tây. Bệnh phát hiện tình cờ qua khám, hay do triệu chứng khó chịu cho bé mà bà mẹ mang bé đến khám.
1. Nấm Candida có đặc điểm gì ?
Bình thường nấm Candida thường trú trên cơ thể và không xâm lấn gây bệnh;
Có 40% – 60% dân số là người lành mang Candida trên cơ thể;
Candida bình thường tồn tại ở da, hệ tiêu hóa, cơ quan sinh dục nữ… và có nhiều chủng khác nhau, trong đó chiếm tỉ lệ cao nhất là chủng Candida albicans chiếm 70%;
Trẻ thường nhiễm Candida trong lúc sinh khi mẹ bị nấm Candida âm đạo lúc mang thai;
Nấm Candida có ở 0,5% – 20% nhũ nhi khỏe mạnh và 50% trẻ nhiễm HIV-AIDS.
2. Yếu tố thuận lợi cho nấm Candida ở miệng phát triển?
Hệ miễn dịch của trẻ chưa trưởng thành;
Vệ sinh miệng kém, đặc biệt bé mang dụng cụ chỉnh nha gây khó khăn trong vệ sinh răng miệng;
Dùng corticoid, kháng sinh kéo dài, thuốc ức chế miễn dịch, hóa trị ung thư…
Chấn thương tại chỗ.
3. Nấm Candida miệng gây triệu chứng gì?
Không triệu chứng, hoặc tình cờ phát hiện thấy mảng trắng trên niêm mạc má hay lưỡi;
Trẻ biếng ăn;
Đau rát họng, nôn ói.
4. Khám miệng bé bị nấm miệng Candida thấy gì?
Các mảng trắng như sữa, hay kem, phủ trên nền hồng ban dính chặt niêm mạc lưỡi, má… khó bóc tách;
Đa số dạng giả mạc trắng, một số dạng bạch sản, tăng sản lưỡi, hay dạng viêm lưỡi có dạng hình thoi ở giữa lưỡi. Trẻ dùng corticoid hít trong dự phòng suyễn mà không súc miệng sau xịt có thể bị nấm miệng dưới dạng hồng ban thường thấy ở vòm họng.
Hồng ban ở vòm họng và viêm lưỡi dạng hình thoi giữa lưỡi
5. Điều trị nấm miệng ở trẻ nhũ nhi khỏe mạnh như thế nào?
Tăng cường vệ sinh răng miệng và loại bỏ yếu tố thuận lợi cho nấm Candida ở miệng phát triển;
Nystatin tại chỗ là chọn lựa an toàn;
Miconazole oral gel rơ miệng hiệu quả hơn nystatin và mùi vị được trẻ chấp nhận tốt hơn. Hơn nữa dạng gel thuận tiện cho bà mẹ trong sử dụng;
Tuyệt đối không dùng mật ong rơ lưỡi cho trẻ, nhất là trẻ nhũ nhi nhỏ hơn 1 tuổi vì trong mật ong có thể chứa bào tử clostradium botulinum, có thể chuyển dạng thành vi khuẩn gây bệnh nguy hiểm cho trẻ.
Điều trị đẹn (tưa lưỡi) do nấm Candida albican gây ra (Nguồn hình: Công Ty Janssen Cilag VN)
6. Rơ miệng thế nào cho hiệu quả và dễ chịu cho bé ?
Vì rơ miệng có thể kích thích khiến trẻ dễ nôn ói, nên việc này thực hiện tốt nhất là lúc bụng bé đói hay trống thức ăn, và nên theo các trình tự sau:
Vệ sinh tay mẹ thật sạch sẽ;
Lấy miếng gạc rơ miệng quấn quanh ngón tay (ngón chọn để rơ miệng phải có kích cỡ phù hợp độ rộng của miệng bé), nhúng miếng gạc rơ miệng trong nước sôi để nguội để làm mềm miếng gạc, nhằm tránh ma sát làm đau bé;
Dùng miệng gạc thấm thuốc chống nấm nystatin đã được nghiền nát hay Miconazole oral gel với lớp mỏng, vừa đủ;
Nếu trẻ bị nấm miệng nhiều nơi, thì nên rơ theo thứ tự: hai bên má trước, sau đó đến vùng khẩu cái trên miệng, và lưỡi rơ sau cùng. Mẹ nên rơ từ ngoài vào trong để giảm thiểu nguy cơ nôn ói cho trẻ.
Nếu không may bị nhiễm herpes sinh dục, có thể bạn sẽ cảm thấy vô cùng khó chịu. Dưới đây là những điều bạn cần biết về herpes sinh dục để có thể đối phó với bệnh dễ dàng hơn.
Herpes sinh dục là gì?
Herpes sinh dục là một bệnh tình dục lây truyền chủ yếu qua con đường sinh hoạt tình dục. Nguyên nhân gây bệnh là do virus Herpes simplex (HSV). Các virus này xâm nhập vào cơ thể qua những lỗ hổng trên da hoặc trên màng nhầy ở bộ phận sinh dục. Herpes sinh dục có đặc trưng chủ yếu là những triệu chứng như đau, ngứa, khó chịu ở vùng cơ quan sinh dục.
Herpes sinh dục là một bệnh tình dục lây truyền chủ yếu qua
con đường sinh hoạt tình dục.
Nguyên nhân khiến herpes sinh dục tái phát và có biến chứng?
Một số yếu tố khiến herpes sinh dục thường xuyên tái phát bao gồm:
– Stress
– Kinh nguyệt
– Suy nhược cơ thể
– Bệnh tật
– Kích ứng hay dị ứng da
– Phẫu thuật
– Quan hệ tình dục quá mạnh
Ở người trưởng thành, ngoài vết loét da, herpes sinh dục không gây ra các biến chứng nặng nề khác. Tuy nhiên, khi mang thai, người mẹ bị herpes sinh mejhthif có thể lây sang cho con qua các vết loét trên da nếu đứa trẻ được sinh thường (qua âm đạo). Trường hợp này, herpes sinh dục có thể gây tổn thương não, mờ mắt hoặc tử vong cho trẻ.
Con đường lây nhiễm?
Vì các triệu chứng bệnh không lộ rõ ra bên ngoài nên nhiều người mang bệnh mà không biết. Trong thời gian bệnh phát triển, người bệnh có thể lây truyền cho bất cứ ai mà họ có quan hệ tình dục hoặc có tiếp xúc qua các vết cắt, vết xước trên da. Vì vậy, tốt nhất, khi có quan hệ tình dục, hãy chọn biện pháp bảo vệ mình cho phù hợp nếu bạn không chắc chắn bạn tình của mình có “sạch sẽ” với bệnh tình dục hay không.
Tôi vẫn có thể có quan hệ tình dục?
Tất nhiên bạn vẫn có thể quan hệ tình dục khi đang bị bệnh nhưng bạn phải hết sức cẩn thận. Hãy dùng bao cao su khi quan hệ tình dục và tránh quan hệ trong thời gian bệnh bùng phát. Điều này giúp bạn kiểm soát và ngăn ngừa bệnh phát triển nặng hơn, khó điều trị hơn.
Virus gây bệnh sẽ không phát triển nếu bạn thận trọng trong dùng thuốc điều trị và chú ý trong sinh hoạt của mình.
Tình trạng thiếu Kẽm và Selen ở trẻ em đang là vấn đề sức khỏe cộng đồng ở nhiều nước, đặc biệt là các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Con số điều tra đáng báo động tại Việt Nam cho thấy có trên 50% trẻ từ 6 tháng đến 7 tuổi thiếu Kẽm huyết thanh và Selen tương đối, trong đó nhóm gặp nguy cơ cao nhất là nhóm trẻ từ 6 tháng đến 17 tháng tuổi và nhóm trẻ gặp vấn đề về suy dinh dưỡng và tiêu chảy. Một số nghiên cứu khác cũng cho ra những con số báo động khi hàm lượng Selen huyết thanh thấp ở học sinh THCS là 15,9%, học sinh tiểu học là 75,6%, và trẻ mẫu giáo, mầm non là 62,3%.
Các nghiên cứu chỉ ra rằng:
– 26,5% trẻ từ 11-17 tuổi thiếu thiếu kẽm
– 50%-90% trẻ bị suy dinh dưỡng kéo dài thiếu kẽm
– 51,9% trẻ từ 6 tháng đến 75 tháng tuổi thiếu kẽm
– 15,9% trẻ em từ 11-17 tuổi thiếu selen
– 75,6% trẻ em cấp 1 thiếu selen
– 62,3% trẻ em từ 12-72 tháng tuổi ở nông thôn thiếu selen
Kẽm và Selen đối với tăng trưởng và miễn dịch
Đối với tăng trưởng
Kẽm giúp duy trì và bảo vệ các tế bào vị giác và khứu giác, vì thế thiếu kẽm sẽ gây biếng ăn do rối loạn vị giác, làm suy thoái quá trình phát triển và tăng trưởng bình thường ở trẻ. Kẽm tham gia vào thành phần của trên 300 enzym kim loại; kẽm là chất xúc tác không thể thiếu được của ARN-polymeraza, có vai trò quan trọng trong quá trình nhân đôi AND, tổng hợp protein, thúc đẩy quá trình sinh tổng hợp và điều hòa chức năng của trục hormone dưới đồi như GH (Growth hormone), IGF-I là những hormone tăng trưởng và kích thích tăng trưởng.
Selen cần cho chuyển hóa i-ốt và có chức năng như một loại enzyme trong quá trình tạo hormone tuyến giáp nhằm kích thích đầu vào năng lượng, cần thiết cho sự tăng trưởng, phát triển và duy trì.
Đối với miễn dịch
Thiếu kẽm làm tổn thương chức năng miễn dịch, làm tăng nguy cơ mắc các bệnh nhiễm khuẩn, từ đó làm giảm tăng trưởng, phát triển của trẻ, làm tăng nguy cơ bị suy dinh dưỡng và tử vong ở trẻ. Trong một nghiên cứu tại Mỹ cho thấy bổ sung kẽm cho trẻ giúp làm giảm 18% trường hợp tiêu chảy, 41% trường hợp viêm phổi và làm giảm tỷ lệ tử vong trên 50%.
Thiếu Selen gây ức chế khả năng đề kháng chống nhiễm trùng, hậu quả của suy giảm chức năng bạch cầu và tuyến ức bởi Selen đóng vai trò thiết yếu trong men Glutathione peroxidase ảnh hưởng tới mọi thành phần của hệ miễn dịch, không loại trừ sự phát triển và hoạt động của bạch cầu.
Dấu hiệu của thiếu Kẽm và Selen
Thiếu kẽm, dấu hiệu thường thấy là ăn không ngon, vị giác bất thường, rụng tóc, tiêu chảy kéo dài, thương tổn ở da và mắt, chậm lớn, cơ quan sinh dục chậm trưởng thành, sụt cân, thiếu máu, chậm lành vết thương và kém minh mẫn.
Thiếu selen ở mức trầm trọng có liên quan đến bệnh Keshan – một bệnh rối loạn ở tim và tổn thương cơ tim nặng nề, xuất hiện chủ yếu ở trẻ em và phụ nữ trong tuổi sinh đẻ. Thiếu selen mức độ nhẹ thường khó thấy các triệu chứng đặc biệt, tuy nhiên nó góp phần làm xuất hiện các tổn hại tế bào quan trọng cũng như thúc đẩy quá trình lão hóa và nguy cơ mắc các bệnh thoái hóa. Thiếu selen trong chế độ ăn lâu dài dẫn đến nguy cơ ung thư, bệnh tim và suy giảm miễn dịch.
Nhu cầu Kẽm và Selen khuyến nghị cho trẻ em Việt Nam
Nhu cầu kẽm ở trẻ dưới 1 tuổi vào khoảng 5mg/ngày, ở trẻ 1-10 tuổi khoảng 10mg/ngày, thanh thiếu niên và người trưởng thành khoảng 15mg/ngày đối với nam và 12mg/ngày đối với nữ.
Nhu cầu selen ở trẻ 0-6 tháng là 6 mcg/ngày, trẻ 7-12 tháng là 10 mcg/ngày, trẻ 1-3 tuổi là 17 mcg/ngày, trẻ 4-9 tuổi khoảng 20 mcg/ngày, đối với thanh thiếu niên 10-18 tuổi nhu cầu là 26 mcg/ngày ở nữ và 32 mcg/ngày ở nam (Nguồn: FAO/WHO 2002 và 2004)
(Ảnh do Biolife cung cấp)
Nguồn cung cấp Kẽm và Selen cho cơ thể
Thức ăn nhiều kẽm là tôm đồng, lươn, hàu, sò, gan lợn, sữa, thịt bò, lòng đỏ trứng, cá, đậu nành, các hạt có dầu (hạnh nhân, hạt điều, đậu phộng…). Với trẻ nhũ nhi, để có đủ kẽm, nên cố gắng cho bú mẹ vì kẽm trong sữa mẹ dễ hấp thu hơn nhiều so với sữa bò. Lượng kẽm trong sữa mẹ ở tháng đầu tiên là cao nhất (2-3 mg/lít), sau 3 tháng thì giảm dần còn 0,9mg/l. Lượng kẽm mà người mẹ mất qua sữa trong 3 tháng đầu ước tính khoảng 1,4 mg/ngày. Do đó, người mẹ cần ăn nhiều thực phẩm giàu kẽm để có đủ cho cả hai mẹ con.
Hàm lượng Selen cao trong cá, hải sản (20,8 – 40,5 đến mcg/100g) và trứng (40,2 mcg đến 14,9 mcg/100g), vừa phải ở thịt gia cầm, đậu hạt và thấp ở sữa bò, ngũ cốc, rau và hoa quả.
Hàm lượng Kẽm và Selen từ hạt đậu xanh nảy mầm tự nhiên(Ảnh do Biolife cung cấp)
Hạt đậu xanh nảy mầm tự nhiên với công nghệ Bio-Enrich (Ảnh do Biolife cung cấp)
Các nhà khoa học trên thế giới đã nghiên cứu thành công công nghệ Bioenrich tăng hàng nghìn lần hàm lượng khoáng vi lượng như Kẽm, Selen, Sắt… trong mầm các loại đỗ. Với các thành tựu của khoa học và công nghệ, con người ngày càng chủ động hơn với các nguồn bổ sung khoáng vi lượng tự nhiên cần thiết hàng ngày. Gần đây nhất, công ty CP Biolife đã cho ra đời sản phẩm UpKid từ công nghệ Bioenrich (www.biolife.vn) điều khiển quá trình nảy mầm của hạt đỗ xanh, giúp chuyển hóa với hiệu suất tối đa khoáng chất vi lượng Kẽm và Selen vô cơ sang cấu trúc hữu cơ tự nhiên thân thiện với cơ thể của trẻ nhỏ, tăng khả năng hấp thu hoàn toàn tới 90%, không để lại dư thừa trong cơ thể.
Ngày nay, các nhà khoa học cho rằng trong một số trường hợp, bệnh có khuynh hướng trở thành ác tính, gây ung thư cổ tử cung hoặc dương vật.
Em có một vấn đề mong được tư vấn là: Hôm trước em phát hiện ở vùng môi lớn của em có một vài nốt sần nổi lên, đi khám các bác sĩ nói em bị bệnh sùi mào gà và đã dùng tia laser để đốt các nốt ấy cho em. Nhưng qua lời của bác sĩ em được biết bệnh này là bệnh lây qua đường tình dục. Em đã kết hôn được 5 tháng, và đang có bầu, em tin tưởng chắc chắn chồng em không có quan hệ gì ngoài với vợ cả, và bản thân em cũng vậy. Nhưng nếu bệnh này chỉ lây lan qua đường tình dục thì em không hiểu mình bị mắc bệnh do đâu?
Các anh chị cho em hỏi bệnh này ngoài đường tình dục ra có đường nào khác khiến mình bị mắc bệnh không ạ? Thực sự em rất hoang mang không biết nguyên nhân do đâu. Rất mong các anh chị trả lời giúp em. Em xin cảm ơn!
(Nga Nguyen)
Trả lời:
Chào bạn,
Trước hết được chia sẻ với bạn về những băn khoăn của bạn trong thời gian vừa qua. Như bạn cũng đã biết Sùi mào gà là một bệnh chủ yếu lây truyền qua đường tình dục, qua chỗ trầy xước niêm mạc do loại virus thuộc nhóm papova gây nên. Đó là HPV (human papilon virus). Tuy nhiên, virus gây bệnh này cũng có thể xâm nhập vào vùng da và niêm mạc khác ngoài bộ phận sinh dục.
Trước đây sùi mào gà được xem là một bệnh lành tính. Nhưng hiện nay, các nhà khoa học cho rằng trong một số trường hợp, bệnh có khuynh hướng trở thành ác tính, gây ung thư cổ tử cung hoặc dương vật.
– Về phần khẳng định em có bị lây từ chồng không thì em và chồng cần nói chuyện thẳng thắn, bởi chỉ cần 1 lần chồng em có quan hệ khác ngoài em là đã có thể nhiễm. Ngoài ra, virus gây bệnh sủi mào gà có thể xâm nhập vào vùng da và niêm mạc khác ngoài bộ phận sinh dục cho nên cũng có thể em và chồng em rất chung thủy nhưng một trong hai sơ ý tiếp xúc qua tay, chân, với người bị bệnh thì cũng sẽ bị lây nhiễm.
– Đối với phụ nữ mang thai sùi mào gà phát triển rất nhanh và khả năng tái phát là rất lớn. Khi điều trị bệnh này thì phải điều trị cả hai vợ chồng vì thế em nên đi đến gặp các BS chuyên khoa để được điều trị.
– Em cũng đang có thai như vậy thì nên kiểm tra thường xuyên hơn và tư vấn thêm các bác sĩ chuyên khoa sản vì bệnh này có thể lây nhiễm từ mẹ sang con trong khi sinh. Em bé có thể lây nhiễm qua dịch âm đạo của người mẹ khi bé ra khỏi bụng mẹ bằng đường dưới.
Phát hiện chậm hoặc không có biện pháp điều trị kịp thời bất thường ‘của quý’ sẽ ảnh hưởng đến ‘khả năng đàn ông’ của bé trai khi trưởng thành.
Vùi dương vật, hẹp bao quy đầu, tinh hoàn ẩn là những bệnh lý thường gặp ở bé trai. Tuy nhiên, không phải bậc cha mẹ nào cũng có hiểu biết đúng đắn để nhờ đến sự can thiệp sớm của thầy thuốc.
1. Vùi dương vật
Vùi dương vật là dị dạng bẩm sinh của bộ phận sinh dục ngoài. Trong dị vật này, thân dương vật và quy đầu bị vùi trong lớp da quy đầu liên tục với bìu và/hoặc thành bụng, nên không nhô lên khỏi lớp da trước xương mu, gây khó khăn khi tiểu tiện. Nếu không được điều trị, dị tật này sẽ gây ra những ảnh hưởng về tiết niệu như nhiễm trùng tiểu tái phát, viêm quy đầu xơ và tắc.
Ngay sau khi chào đời, nếu được bác sĩ nhi khoa có kinh nghiệm thăm khám, sẽ phát hiện được ngay bất thường của dương vật với đặc trưng là ống dương vật rất ngắn hay không có. Tuy nhiên, thực tế có nhiều trường hợp được phát hiện rất muộn, có lẽ do lầm lẫn với biểu hiện của hẹp bao quy đầu và do thiếu sự quan tâm của cha mẹ.
Khi phát hiện ‘của quý’ của bé có dấu hiệu bất thường, cha mẹ nên đưa bé đi khám ngay. (Ảnh minh họa).
Vì vậy, nếu không thấy dương vật hoặc ấn ngón tay vào gốc dương vật để kéo da dương vật và bao quy đầu thì thấy thân dương vật bình thường, nhưng khi buông tay lại thấy dương vật ‘biến mất’ vào ngấn da thì cha mẹ nên đưa ngay bé đến bác sĩ chuyên khoa để thăm khám và có biện pháp điều trị hoặc phẫu thuật kịp thời.
2. Hẹp bao quy đầu
Chít hẹp bao qui đầu là tình trạng vòng bao qui đầu bị hẹp ở các mức độ khác nhau nên không thể lộn được bao qui đầu. Đa số chít hẹp bao qui đầu là do bẩm sinh. Trẻ có dấu hiệu tiểu khó và phải rặn mạnh, tia nước tiểu nhỏ trong khi bao qui đầu chứa đầy nước tiểu căng phồng lên, vuốt nhẹ da bao qui đầu ra phía sau không nhìn thấy lỗ đái.
Thường khi bé vài ba tháng tuổi thì chưa cần quan tâm nhiều đến vấn đề này nhưng bé từ 5 – 6 tháng tuổi trở lên, bố mẹ cần lưu ý. Bạn có thể phát hiện bằng cách vạch da quy đầu của bé xem lỗ có hẹp không hoặc quan sát lúc đi tiểu xem tia nước ra sao (nếu tia nước nhỏ như cái kim, bé khó tiểu, thậm chí da phần quy đầu phồng lên do nước và chất cặn bã tích lại thì chắc chắn bé bị bệnh này).
Hẹp bao quy đầu nếu không được xử lý sớm sẽ khiến bé đi tiểu khó, thậm chí thấy đau, khóc, nước tiểu ra không hết cộng với chất cặn đọng lại bên trong lâu dần thành những cục to, gây viêm nhiễm.
Cách khắc phục nếu bị bệnh: Khi bé 5 – 6 tháng tuổi, mỗi lần tắm cho con, bố mẹ có thể dùng tay nhẹ nhàng kéo lộn phần da quy đầu xuống, cứ thế mỗi lần một chút có thể khiến bao quy đầu rộng dần và trở về bình thường. Tuy nhiên, nếu sau một thời gian mà tình hình không cải thiện hoặc do lỗ quá hẹp thì phụ huynh nên đưa con đến gặp bác sĩ chuyên khoa để được tư vấn.
3. Tinh hoàn ẩn
Tinh hoàn là nơi sản xuất chất nội tiết sinh dục và tinh trùng cho bé trai. Trước khi đứa bé ra đời, tinh hoàn di chuyển từ trong ổ bụng xuyên qua thành bụng ở vùng bẹn vào vị trí bình thường là bìu. Nếu sự di chuyển này gặp “sự cố”, tinh hoàn sẽ nằm đâu đó trên đường đi của nó.
Đây là bệnh dễ phát hiện, vì chỉ cần sờ bìu của trẻ là có thể biết. Tuy nhiên, nhiều cha mẹ dù biết bệnh của con phải mổ nhưng cũng không đưa đến viện sớm. Lý do là vì sợ trẻ còn nhỏ, động dao kéo vào thì không tốt nên cố đợi con lớn mới đến viện.
Thực tế, ở những trẻ có tinh hoàn ẩn, trước 1 tuổi, tinh hoàn có thể tự di chuyển dần xuống bìu. Nhưng sau 1 tuổi, khả năng này là rất thấp. Vì thế các bác sĩ thường khuyên cha mẹ đưa trẻ đi mổ lúc 15-18 tháng tuổi.
Bé bị tinh hoàn ẩn không quá nguy hiểm, điều quan trọng là phải phát hiện sớm và mổ kịp thời để tránh những biến chứng như teo nhỏ hoặc xoắn tinh hoàn.
Có loại thực phẩm làm cho cuộc sống tình dục của bạn tốt hơn? Đã có nhiều sách nói về thực phẩm có thể thúc đẩy ham muốn tình dục của bạn, Dưới đây là một số thực phẩm mà bạn nên bổ sung vào chế độ ăn uống hàng ngày để có một đời sống tình dục tốt.
Cần tây
Cần tây có khả năng củng cố ham muốn cho cả đàn ông và phụ nữ. Cần tây được đề cập đến như một loại rau viarga, có tác dụng kích thích hưng phấn. Cần tây có khả năng củng cố ham muốn cho cả đàn ông và phụ nữ. Cần tây được đề cập đến như một loại rau viarga, có tác dụng kích thích hưng phấn.
Cần tây có tác dụng lớn trong thúc đẩy đam mê tình dục. Nếu bạn muốn tăng hưng phấn, có thể ăn cần tây trước khi bắt đầu “nhập cuộc”‘. Ngoài ra, ăn cần tây có thể làm tăng sản xuất chất lỏng trong quá trình xuất tinh. Một khi tăng khối lượng xuất tinh, người đàn ông sẽ nhận được nhiều cảm giác, niềm vui trong quá trình đạt cực khoái.
Hàu
Đây là một trong những loại thuốc kích thích tình dục tốt nhất. hàu giúp cho việc thiết lập tâm trạng. Hàu là nguồn phong phú kẽm và giúp kích thích việc sản sinh tinh dịch cũng như hormone sinh dục nam testosterone. Hàu cũng chứa dopamine, một loại hormone giúp tăng sự hứng khởi ân ái.
Chuối
Chuối là nguồn bổ sung enzyme bromelain, giúp tăng ham muốn tình dục và chống bệnh liệt dương ở nam giới. Ngoài ra, chuối còn chứa nhiều kali và vitamin B như riboflavin, tăng năng lượng cho cơ thể.
Bơ
Trái bơ được đầy đủ các chất béo giàu năng lượng, giàu axit folic giúp chuyển hóa protein trong cơ thể do đó đem lại cho bạn nhiều năng lượng hơn. Bơ có tác dụng tuyệt vời cho sức khỏe tim mạch của bạn và cho đời sống tình dục của bạn. Bơ còn chứa vitamin B6 (một dưỡng chất giúp kích thích việc sản sinh hormone sinh dục nam) và kali (giúp điều hòa tuyến giáp ở phụ nữ), hai nhân tố giúp kích thích ham muốn tình dục ở cả nam lẫn nữ giới.
Sung
Chất xơ có trong quả sung tốt cho tim mạch, tăng cường khả năng sinh sản và là một loại quả kích thích ham muốn tình dục tuyệt vời.
Tất cả các loại hạt
Các loại hoạt là một nguồn tuyệt vời của các axit béo thiết yếu, các loại hạt được biết là cung cấp tăng cho niềm đam mê của bạn. Các loại hát có tác dụng cho khả năng sinh sản và sức khỏe tình dục. Hạnh nhân, đặc biệt, được biết là khơi dậy sự nhiệt tình ở phụ nữ chỉ đơn giản là thông qua mùi hương. Các loại hạt có chứ đầy đủ kẽm duy trì năng lượng cho bạn và giúp cho khả năng tình dục của bạn kéo dài hơn.
Gia vị
Thành phần gia vị như ớt, đặc biệt là như ớt cayenne có một lượng đầy đủ của capsaicin – một nguyên nhân gây tăng nhịp tim, đổ mồ hôi và kích thích da. Các phản ứng của cơ thể để gia vị với capsaicin là khá tương tự như kích thích tình dục.
Vào một số thời điểm nhạy cảm, bạn không nên làm “chuyện ấy”, nếu không nó sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của bạn.
Dưới đây là một số thời điểm “nhạy cảm” bạn không nên làm “chuyện ấy”:
1. Khi quá mệt mỏi
Khi chúng ta quan hệ tình dục thì phải tiêu hao một lượng thể lực và tính lực nhất định. Khi tinh thần và cơ thể mệt mỏi, nếu làm “chuyện ấy” thông thường sẽ không đạt tới cao trào, đặc biệt là khi đang mệt mỏi lập tức quan hệ sẽ làm tổn hại đến sức khoẻ.
2. Sau khi vừa tắm xong
Khi tắm, nhất là khi vừa tắm nước nóng, tuần hoàn máu trong cơ thể sẽ tăng nhanh, mạch máu dưới da sẽ nở ra. Nếu bạn quan hệ tình dục ngay khi vừa tắm, các cơ quan sinh dục sẽ dễ bị xung huyết, gia tăng gánh nặng cho tuần hoàn máu, khiến hệ tuần hoàn bị mất cân bằng…
3. Khi đã ăn no hoặc đói
Do ăn no làm cho đường ruột và dạ dày căng cứng, đồng thời chứa đầy máu. Huyết dịch ở não và các cơ quan khác trên toàn bộ cơ thể ngược lại không được cung cấp đầy đủ, vì vậy không nên làm “chuyện ấy” khi vừa ăn no xong. Ngược lại, khi chúng ta đói bụng, thể lực và tinh lực giảm, lúc này quan hệ tình dục thông thường cũng sẽ không dễ đạt tới hiệu quả và sự thoả mãn.
Ăn no thì không nên ‘yêu’ (Ảnh minh họa)
4. Không vệ sinh
Sinh hoạt tình dục trong môi trường ô nhiễm, ồn ào sẽ ảnh hưởng đến trạng thái tinh thần của cả hai đối tác, gây cản trở sự thành công của “chuyện ấy”. Nếu bộ phận sinh dục mất vệ sinh, sẽ nguy hiểm đến sức khoẻ của người bạn đối tác, sẽ đem mầm bệnh vào người đối tác, làm tổn hại đến sức khoẻ của đối tác.
Ngược lại, môi trường trong sạch, ngăn nắp, vui mắt và tắm rửa sạch sẽ trước khi giao hợp, không những có lợi cho sức khoẻ của hai bên mà còn có lợi cho cuộc sống ân ái hài hoà, tốt đẹp.
5. Khi tâm lý căng thẳng
Nhiều cặp vợ chồng ngay trong đêm tân hôn đã xảy ra trường hợp người chồng bị đột tử, hoặc người vợ cảm thấy đau đớn. Nguyên nhân chính là do tâm lý quá căng thẳng, hệ thần kinh bị ức chế quá mức gây kích thích tại não. Điều này không chỉ gây ảnh hưởng tới sức khỏe mà nó còn làm giảm sự hưng phấn. Bởi vậy bạn hãy tránh quan hệ khi tâm lý căng thẳng.
6. Vào sáng sớm
Nếu được nghỉ ở nhà thì không vấn đề, nhưng nếu gần gũi xong mà phải dậy đi làm ngay, thì hiệu quả công việc không những giảm mà còn tổn hại đến cơ thể… Sau cao trào gần gũi, rất cần được nghỉ ngơi. Nếu phải lao động, làm việc ngay càng làm tăng thêm gáng nặng cho cơ thể…sẽ dẫn đến tình trạng quá mệt mỏi, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống, học tập và làm việc.
7. Phụ nữ trong kỳ kinh nguyệt
Trong thời gian “đỏ đèn”, niêm mạc tử cung người phụ nữ dễ bị tổn thương và xung huyết, khả năng phòng nhiễm khuẩn giảm… Nếu quan hệ tình dục trong thời gian này, không những làm vùng kín ra máu nhiều hơn, kéo dài thời gian mà còn có thể đưa vi khuẩn vào âm đạo, dễ bị viêm cổ tử cung, viêm âm đạo, tổn hại đến sức khoẻ…
8. Khi đang bị bệnh
Những người mắc bệnh nghiêm trọng, người mệt mỏi và thường bác sĩ đã căn dặn không nên sinh hoạt tình dục, do vậy không nên miễn cưỡng hoặc cố tình làm “chuyện ấy”. Người mắc bệnh kết hạch lây nhiễm cũng nên tránh giao hợp: đặc biệt là những người mắc bệnh về đường tình dục càng không nên quan hệ. Người bệnh nếu quan hệ vừa làm hại mình vừa lây nhiễm sang người khác, vì vậy hoàn toàn phải tránh.
9. Sau khi sinh
Sau khi snh nở, nếu bạn quan hệ quá sớm thì sẽ làm cho tử cung lâu khỏi, thậm chí sẽ khiến tử cung bị chảy máu, băng huyết
10. Sau khi uống rượu
Một số người quen làm “chuyện ấy” sau khi uống rượu, thậm chí có người cho rằng sau khi uống rượu mà làm “chuyện ấy” sẽ càng “nâng cao chất lượng”. Thực chất sau khi uống rượu, nhất là uống rượu mạnh, sẽ làm cho “cậu nhỏ” của cánh mày râu cương lên khô cứng hay xuất tinh sớm, tạo thành trở ngại cho việc sinh hoạt ân ái thiếu hài hoà. Hơn nữa sau khi uống rượu sẽ nguy hại đến thai nhi, nếu như người phụ nữ đang có bầu.
Có nhiều người cả chục lần kích trứng, 4 – 5 lần thụ tinh ống nghiệm, thậm chí ra cả nước ngoài điều trị vẫn không có con.
GS.TS Nguyễn Đức Vy, nguyên giám đốc Bệnh viện Phụ sản TƯ, chủ tịch Hội Sản phụ khoa Việt Nam cho biết, quá trình điều trị vô sinh thường kéo dài, tốn kém và không ít cặp vợ chồng đã tan vỡ.
Khó nhất là không tìm ra nguyên nhân
PGS.TS Nguyễn Viết Tiến, thứ trưởng Bộ Y tế, giám đốc Bệnh viện Phụ sản TƯ cho biết, theo thông kê của Bộ Y tế, số người vô sinh ở Việt Nam ở mức 8% và 10 – 15% cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ. Mỗi ngày Trung tâm Hỗ trợ sinh sản, Bệnh viện Phụ sản TƯ tiếp nhận khám, tư vấn và điều trị cho khoảng trên 100 ca vô sinh.
Nguyên nhân vô sinh cũng có rất nhiều và phức tạp. Đối với người chồng thường do chất lượng và số lượng tinh trùng không tốt. Về phía người vợ có thể do dị tật bẩm sinh ở tuyến sinh dục. Có khi do hoạt động không bình thường của hệ thống nội tiết trong cơ thể, đặc biệt là các tuyến nội tiết trên não và ở buồng trứng. Có khi do các bệnh nội khoa, đặc biệt là ở các loại viêm nhiễm đường sinh dục từ ngoài vào trong có thể gây tắc vòi trứng, dính tử cung, chít hẹp cổ tử cung, thay đổi môi trường âm đạo… làm cho không thể thụ thai.
Theo GS.TS Nguyễn Đức Vy, điều trị vô sinh tùy theo nguyên nhân để giải quyết bằng nội khoa hay phẫu thuật. Nếu đã thực hiện phương pháp này mà không thành công thì cần tiếp tục chuyển qua phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm.
Điều trị vô sinh bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm thường cho kết quả cao (30 – 35%), tuy nhiên, để sinh nở “mẹ tròn con vuông” chỉ khoảng 20 – 25%. Đặc biệt, chi phí cho mỗi lần sinh con bằng thụ tinh trong ống nghiệm có thể rơi vào khoảng từ 40 – 100 triệu đồng, nhiều trường hợp chi phí cao hơn gấp nhiều lần tuỳ vào thể trạng bệnh nhân.
Càng sốt ruột, càng khó mang thai
Các chuyên gia cảnh báo, điều khó khăn nhất trong điều trị vô sinh là tâm lý của cả bệnh nhân và bác sĩ. Người đi chữa vô sinh thường rất sốt ruột. Việc sốt ruột, điều trị một lúc nhiều thầy, nhiều thuốc cả Đông và Tây y có thể gây ra những biến chứng nguy hiểm bởi sự tương tác thuốc. Đặc biệt, yếu tố tâm lý rất quan trọng trong điều trị vô sinh.
Ở một phụ nữ bình thường nếu stress diễn ra thường xuyên cũng rất khó thụ thai, còn ở phụ nữ có “vấn đề về sinh nở” lại càng khó khăn hơn nếu họ không tự vượt qua được những áp lực từ bản thân, gia đình, xã hội… thì khó mà có kết quả được.